Thứ Hai, 24 tháng 9, 2012

Hans Christian Andersen


Thời niên thiếu và con đường đến với văn
Andersen sinh ra ở Odense, Đan Mạch vào ngày 2 tháng 4 năm 1805.
Cha của Andersen luôn tin rằng ông có thể có mối quan hệ với dòng dõi quý tộc và theo như một nhà thông thái ở Hans Christian Andersen Center, bà nội của ông từng nói rằng gia đình của họ từng là thuộc giai cấp trên trong xã hội. Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu chứng tỏ rằng những câu chuyện trên là vô căn cứ. Gia đình ông có những mối liên hệ với quý tộc Đan Mạch, nhưng đó chỉ là quan hệ về công việc. Tuy nhiên, có thuyết cho rằng Andersen là một đứa con bất hợp pháp của người trong hoàng tộc còn lại ở Đan Mạch, một sự thật ủng hộ cho thuyết này là vua Đan Mạch đã ưu ái Andersen khi ông còn trẻ tuổi và đã trả các khoản tiền học phí cho ông. Nhà văn Rolf Dorset khẳng định rằng diều đó cũng không chứng minh được đó là khoản thừa kế của Andersen.
Andersen đã biểu lộ trí thông minh và óc tưởng tượng tuyệt vời của mình khi còn là một cậu bé, tính cách đó được nuôi dưỡng bởi sự nuông chiều của cha mẹ và sự mê tín của mẹ ông. Ông thường tự làm cho mình các món đồ chơi, may áo cho các con rối và đọc tất cả các vở kịch, hầu hết là những vở kịch của William Shakespeare và của Ludvig Holberg. Trong suốt thời thơ ấu, ông có một tình yêu nồng nhiệt đối với văn học. Ông được biết đến vì thuộc làu các vở kịch của Shakespeare và tự trình diễn các vở kịch bằng những con rối gỗ. Ông cũng có hứng thú với nghệ thuật nói đùa, và hỗ trợ trong việc đề xướng ra hội những người thích đùa giữa những người bạn của ông .
Năm 1816, cha ông qua đời và cậu bé phải tự đi kiếm sống. Ông làm thợ học dệt vải và cả thợ may, sau đó thì vào làm trong nhà máy thuốc lá.Năm 14 tuổi, Andersen chuyển tới Copenhagen (tiếng Đan Mạch: København) tìm việc làm diễn viên trong các nhà hát. Ông có chất giọng cao và đã được kết nạp vào Nhà hát Hoàng gia Đan Mạch. Sự nghiệp này kết thúc nhanh chóng khi ông vỡ giọng. Một người bạn đã khuyên ông làm thơ. Từ đó, Andersen chuyển hẳn sang viết văn.
May mắn ông đã vô tình gặp được vua Frederik VI của Đan Mạch. Nhà vua rất thích cậu bé kỳ lạ này và đã gửi ông vào một trường học La tinh ở Slagelse. Trước khi được nhận vào trường học, Andersen đã thành công trong việc xuất bản câu chuyện đầu tiên của ông - The Ghost at Palnatoke's Grave (Bóng ma ở ngôi mộ Palnatoke) vào năm 1822 . Mặc dù là một học sinh chậm tiến (có lẽ là không học được) và không thích thú với việc học, Andersen học ở cả Slagelse và ở một trường ở Helsingør cho tới năm 1827. Andersen sau này đã tả những năm tại Slagelse và Helsingør là những năm đen tối nhất trong cuộc đời vì bị hành hạ khi sống trọ tại nhà người thầy và vì các bạn cùng lớp lớn tuổi hơn.

Cô bé bán diêm
Hans Christian Andersen

Đêm nay là đêm giao thừa, trời lạnh như cắt, tuyết rơi không ngừng. Một cô gái nhỏ lang thang trên con đường trong đêm đen và giá buốt. Em đi chân đất và trên đầu chẳng có mũ nón. Khi em rời khỏi nhà, em cũng mang một đôi dép, nhưng chúng quá lớn so với chân em, đôi dép cũ mà mẹ em mang đã mòn nhẵn, và khi em phải chạy băng qua đường để tránh xe cộ, em đã đánh rơi chúng. Một chiếc dép thì mất hẳn, chiếc còn lại được một bé trai nhặt được và chiếm đoạt luôn. Cho nên em bé gái đáng thương đành để cho đôi chân trần trụi của mình bị tái đi vì cóng. Em mang theo một ít hộp diêm trong túi áo, và trên tay cầm một hộp: em là một em bé bán diêm.
Suốt ngày nay, chẳng có ai mua cho em lấy một xu. Em bé khốn khổ vừa đói, vừa lạnh. Hoa tuyết rơi bám đầy mái tóc vàng óng của em - mái tóc xinh đẹp uốn tự nhiên và bao quanh khuôn mặt bầu bĩnh - nhưng em chẳng hề quan tâm. Từ các khung cửa sổ, ánh đèn chiếu hắt ra, mùi thịt ngỗng nướng thơm phức thoang thoảng đâu đây. Đêm nay là giao thừa mà, em chẳng quên điều đó.
Em tìm đến một góc vắng giữa hai căn nhà, ngồi xuống dùng phần thân thể trên để ủ đôi chân trần. Em cảm thấy lạnh hơn bao giờ hết trong đời. Em chẳng dám về nhà, vì em không bán được hộp diêm nào, và cũng chẳng kiếm được đồng nào. Cha em sẽ đánh em. Vả lại, ở nhà thì cũng lạnh chẳng khác gì ngoài đường phố này. Căn nhà chỉ có một cái mái rách, và những ngọn gió lồng rít lên như thể sắp thổi tung cả cái khung tre lẫn đám tranh rách nát trên đó.
Đôi bàn tay nhỏ bé dường như đã cóng hẳn. Một que diêm có lẽ sẽ giúp em ấm thêm chút nào chăng? Em đánh liều rút ra một que và quẹt lên vách nhà để sưởi ấm những ngón tay. Que diêm bật cháy lên, kêu xèo xèo; ngọn lửa sáng như một cây đèn cầy khi em dùng cách ngón tay che quanh nó. Em bé gái mường tượng rằng em đang ngồi trước một lò sưởi lớn có khung mạ vàng. Ngọn lửa kỳ diệu cháy lên bập bùng trong đó và sưởi ấm em, nhưng đột nhiên, khi em vừa duỗi đôi chân ra hòng sưởi ấm, ngọn lửa tắt mất, cái lò sưởi biến mất, và em thấy mình còn lại với cọng diêm trong tay.
Em quẹt thêm một cây, diêm cháy bùng lên, ánh sáng chiếu lên vách nhà. Nó dường như trong suốt đến độ em có thể nhìn thấy mọi vật bên trong. Chiếc bàn ăn trải bằng vải trắng tinh và trên bàn là bát đĩa bằng sứ Trung Hoa. Một con ngỗng béo nướng chín vàng với táo và mận rải lên mình nó. Và kìa, miếng thịt ngỗng thơm ngon được xẻ ra và như có ai đó đang dùng chiếc nĩa đưa nó xuyên qua bức vách, đút tận miệng em bé. Bất chợt tất cả đều biến mất. Diêm tắt, chẳng có gì hiện hữu ngòai tấm vách dày, đen ngòm!!
Em lại đốt lên que diêm khác. Lần này, em thấy mình ngồi bên cây thông Noel xinh đẹp. Nó đẹp và lớn hơn hết thảy những cây Noel mà em được thấy qua khung cửa những ngôi nhà giàu nhất trong phố. Hàng ngàn ánh đèn lấp lánh trên các cành cây. Những bức tranh nhiều màu sắc như những tấm mà em thường thấy trong các tiệm sách. Em đưa tay với lấy những bức tranh. Diêm tắt! Những cây đèn trên cây bay vút lên cao, cao mãi, và em thấy rằng đó chỉ là những ngôi sao chớp chớp trên nền trời cao vòi vọi. Một ngôi sao xẹt qua trên bầu trời. "Chắc có ai đó vừa qua đời" em nghĩ. Chả là bà nội, người độc nhất thương em, thường nói: Khi có một ngôi sao rơi trên trời là có một linh hồn về nơi nước Chúa."
Em quẹt thêm một cây diêm. Lần này, em thấy bà em hiện ra giữa vòng hào quang của ánh diêm. Bà nhìn em hiền từ. "Nội ơi!", em kêu lên, "Nội cho cháu theo với Nội. Cháu biết Nội cũng sẽ biến đi khi ánh diêm này tắt. Nội sẽ tan biến cũng như cái lò sưởi, cũng như miếng thịt ngỗng quay và cũng như cây Noel huy hoàng kia."
Em vội vàng quẹt lên cả nắm diêm, vì em muốn giữ hình ảnh bà ở lại với em lâu hơn. Ánh sáng của nắm diêm tỏa ra như ánh sáng của ban ngày. Em thấy bà đẹp hơn bao giờ hết. Bà bế em trong đôi tay ấm áp. Họ bay lên trong vòng hào quang của ánh sáng và hạnh phúc, bay coa lên, cao lên vút hẳn lên không, nơi chẳng còn dư ấm của cái đói, cái lạnh, cái đau khổ, vì họ đang lên với Chúa từ nhân.
Trogn ánh sáng lạnh của một ngày mới, em bé bán diêm vẫn còn ngồi kia, trong góc giữa hai ngôi nhà, với đôi má hồng hào và nụ cười thỏa mãn trên môi. Nhưng em đã bất động. Em chết vì lạnh cóng đêm giao thừa qua. Ngày mới đang sáng dần, soi rõ hình ảnh em bé khốn khổ với những que diêm tàn trong bàn tay nhỏ bé. Người qua đường bảo nhau: "Chắc em đã cố để sưởi ấm thân mình." Nhưng chẳng ai biết được những điều huyền diệu em đã trải qua, chẳng ai biết rằng em đã bay lên thiên đàng với bà yêu quý trong hào quang chói lọi của một năm mới.