Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

“Tị nạn” giáo dục

Thứ Ba, 02/10/2012

Nhiều trí thức hàng đầu hội tụ để đóng góp ý kiến xây dựng một nền giáo dục tiên tiến cho đất nước.

Giáo sư Chu Hảo khẳng định nền giáo dục của chúng ta đang đi lạc đường, còn Giáo sư Hoàng Tụy cho rằng nền giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng triền miên bởi ràng buộc các ý thực hệ cứng nhắc.
Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình quan tâm đến chính sách đãi ngộ cho giáo viên, bởi vì đây chính là yếu tố căn bản để người thầy gắn bó, tận tâm với nghề. Giáo sư Nguyễn Lân Dũng đề xuất việc xuất bản sách giáo khoa nên để nhiều nhóm tác giả và nhà xuất bản cạnh tranh mới có sản phẩm đạt chất lượng cao.
Những ý kiến nêu ra tại hội thảo đổi mới giáo dục diễn ra hôm 29.9 đều tâm huyết, xác thực và quyết liệt.   
Thực ra, những ý kiến này không phải là phát hiện mới mẻ, tuy nhiên, dù được đưa ra tại nhiều hội nghị, hội thảo về giáo dục, nhưng nó vẫn còn mới là vì cái cũ chưa được thay đổi. Các bậc trí thức uy tín có trách nhiệm với nền giáo dục của đất nước cho nên rất có trách nhiệm với những phát ngôn của mình. Việc khẳng định “một nền giáo dục đi lạc đường” hoặc “khủng hoảng triền miên” có thể gây sốc cho những người quản lý giáo dục, nhưng đó là lời nói trung thực của tấm lòng, đúng đắn của khoa học, cho nên không thể không lắng nghe.
Tư duy cứng nhắc khiến cho nền giáo dục Việt Nam bị khủng hoảng mà Giáo sư Hoàng Tụy đề cập đến tưởng cũng cần phải phân tích một cách khách quan, khoa học để điều chỉnh để có được một nền giáo dục khai phóng phát triển. Chúng ta thường nói đến tư duy giáo dục áp đặt một chiều, đè nén suy nghĩ độc lập, triệt tiêu khả năng sáng tạo. Chúng ta thường nói đến một đường lối giáo dục khoa học xã hội nặng từ chương theo kiểu rập khuôn, lời thầy nói bao giờ cũng đúng, là bất biến, là chân lý.
Nếu thế giới này không có những bộ óc biết suy nghĩ ngược lại với những bộ óc cũ, không có những người dám “phá hủy sáng tạo” (khái niệm của Joseph Schumpeter – nhà kinh tế, chính trị học người Áo) thì làm sao con người đạt được những thành tựu vĩ đại mọi mặt như ngày hôm nay. Sự khác biệt giữa các quốc gia phát triển và chậm phát triển hôm nay không phải là gì hơn ngoài một lằn ranh giữa một bên luôn luôn sáng tạo và đổi mới trong ánh sáng của văn minh, còn bên kia là bảo thủ, trì trệ.
Gần đây, nhiều gia đình cho con cái đi du học thường dùng cách nói là đi “tị nạn giáo dục”. Có thể hơi quá lời nhưng dù sao cũng hàm chứa phần nào thực tế hiện nay. Một nền giáo dục đang bị lạc đường và khủng hoảng triền miên thì phải “tị nạn” là đúng rồi. Còn để cho con em không phải đi “tị nạn giáo dục” thì nền giáo dục của quốc gia phải sửa lại cho đúng đường.    
Theo Lao động

Đã đến lúc phải cương quyết chọn đường cho giáo dục Việt Nam

Thứ Hai, 01/10/2012 - 11:32

Nền giáo dục của chúng ta hiện nay không phải là lạc hậu (đi đúng hướng nhưng đi chậm) mà là lạc đường - GS Chu Hảo phát biểu tại hội nghị về đổi mới giáo dục diễn ra hôm 29/9.

Sáng ngày 29/9, những nhà giáo nhân dân, giáo sư đầu ngành như nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình, GS Hoàng Tụy, GS Hoàng Xuân Sính, GS Chu Hảo, GS Nguyễn Lân Dũng, GS Phạm Minh Hạc, GS Nguyễn Xuân Hãn... đã hội tụ để có ý kiến phản biện và kiến nghị về nhiều vấn đề của giáo dục trong bối cảnh Bộ Giáo dục Đào tạo và Ban Tuyên giáo Trung ương đang xây dựng đề án “Đổi mới giáo dục căn bản và toàn diện”.

Tuy nhiên, đáng tiếc là, dù đã có lời mời nhưng không có một đại diện nào của Bộ GDĐT tham gia cuộc hội thảo này.

Bức tranh tối màu

Nhận định thẳng thắn về tình hình giáo dục hiện tại, GS Chu Hảo cho rằng: Nền giáo dục của chúng ta hiện nay không phải là lạc hậu (đi đúng hướng nhưng đi chậm) mà là lạc đường. Những yếu kém, bất cập và lạc hậu đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng trong nền giáo dục quốc dân của chúng ta đã tồn tại từ nhiều năm nay ngày càng trầm trọng. Hậu quả của nó không chỉ là không đáp ứng được nguồn nhân  lực cho công cuộc CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, mà quan trọng hơn là góp phần làm suy yếu thêm nền tảng văn hóa - đạo đức xã hội.

GS Hoàng Xuân Sính “vẽ” cụ thể một bức tranh trải ra trước mắt: Hệ phổ thông với thầy và trò suốt ngày dạy thêm học thêm; hệ ĐH với những sinh viên chỉ muốn xả hơi sau 12 năm gò lưng trên bàn học, đến mùa thi thì đi thầy để có bảng điểm tốt; và một danh sách dài những gia đình chán ngán giáo dục nước nhà, tìm cách cho con ra nước ngoài học... Có thể nói trong 12 năm từ tiểu học đến hết THPT - giáo dục của Việt Nam chỉ làm được việc dạy kiến thức, còn việc dạy người thì chưa làm được gì.

GS Hoàng Tụy khẩn thiết: Sau mấy chục năm giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng triền miên bởi các ràng buộc ý thức hệ cứng nhắc, đã đến lúc phải có lựa chọn: Hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước trong nền giáo dục ngày càng tụt hậu so với thế giới; hoặc là cương quyết thay đổi tư duy - thực hiện bước ngoặt cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển.

Mệt mỏi, căng thẳng với thi cử và những chương trình học vô bổ, mất thời gian. (Ảnh: Giang Huy)
Mệt mỏi, căng thẳng với thi cử và những chương trình học vô bổ, mất thời gian. (Ảnh: Giang Huy)


Mối lo về nhân lực

Nguyên Phó Chủ tịch Nước Nguyễn Thị Bình bày tỏ sự lo ngại về vấn đề chất lượng giáo viên đang đi xuống. Theo kết quả điều tra mới nhất, một tỉ lệ khá lớn giáo viên phổ thông đang không đủ sức đáp ứng các yêu cầu của chương trình hiện hành. Tới đây, chất lượng giáo viên mới vào nghề còn thấp hơn nữa vì phần lớn sinh viên đang học các trường sư phạm vốn chỉ là học sinh trung bình, phương pháp đào tạo lại quá lạc hậu.

Theo bà Nguyễn Thị Bình, trở ngại lớn nhất trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên phổ thông chính là họ không còn động lực hoạt động nghề nghiệp vì thu nhập từ lương và phụ cấp nhà nước trả không đủ bảo đảm cho họ có một cuộc sống tươm tất. Để tự cứu mình, nhiều giáo viên phải dạy thêm dẫn đến dạy thêm tràn lan, sự xuống cấp về đạo đức cũng khiến giáo viên bị lây nhiễm và vì thế, vị thế của nghề giáo, người thầy bị hạ thấp trong thang giá trị xã hội...

Bà Nguyễn Thị Bình nhấn mạnh yêu cầu “cần phải tập trung sửa đổi chính sách đối với nhà giáo và cải cách công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo viên”. Bà cũng cho rằng phải có chính sách thu hút người giỏi vào sư phạm.

GS Nguyễn Xuân Hãn nhận định: “Lương giáo viên hiện nay quá thấp là một nguyên do khiến giáo viên không yên tâm với nghề và người giỏi không chọn ngành sư phạm”. Nhìn ở khía cạnh khác hơn, PGS Khổng Doãn Điền lại cho rằng: “Giáo viên không gắn bó với nghề không hẳn do đãi ngộ mà là “đãi ngộ như thế đã công bằng chưa?”.

GS Vũ Hoan - Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Hà Nội, kiến nghị cần tách lương giáo viên ra khỏi hệ thống lương hành chính sự nghiệp trong việc cải cách lương sắp tới. Trước mắt, phải cho giáo viên nghỉ hưu trước ngày 1.1.1994 đến 1.5.2011 được hưởng phụ cấp thâm niên để công bằng.

Viết SGK mới: Nên để các nhóm tác giả cạnh tranh

Dù đề xuất cần sớm tiến hành viết lại sách giáo khoa nhưng các trí thức thủ đô cho rằng, hãy để cho các nhà xuất bản và các nhóm tác giả cạnh tranh nhau qua chất lượng các bộ sách. Là một trong những người đầu tiên tham gia Ban Tu thư của Bộ Giáo dục, Nhà giáo Nhân dân Lê Hải Châu cho rằng, ngành giáo dục đã đến lúc phải làm lại chương trình các môn học, mạnh dạn bỏ những nội dung ôm đồm, không thiết thực, xa rời thực tiễn, không phục vụ cuộc sống, thiếu hệ thống trong từng cấp và giữa các cấp, giữa các môn khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.

Để viết sách giáo khoa mới, theo GS Nguyễn Lân Dũng (Phó Chủ nhiệm Hội đồng tư vấn Khoa học - Giáo dục, Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam), nên dựa vào các hội khoa học chuyên ngành để lựa chọn những chuyên gia giỏi, kết hợp với thầy cô giáo có kinh nghiệm lâu năm biên soạn ngay một chương trình mới. Việc in SGK nên để cho từng nhóm tác giả và từng nhà xuất bản làm.

Còn việc lựa chọn bộ sách nào để giảng dạy, để học là tùy thầy cô và học sinh. Chỉ có cạnh tranh khoa học lành mạnh như vậy mới mong sớm có được những bộ sách giáo khoa tốt.

6 kiến nghị của Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Hà Nội: Mọi nghị quyết của Đảng liên quan đến sự nghiệp GD-ĐT, cần nghiên cứu kỹ, có sự tham gia của các tầng lớp xã hội; xem xét lại và chấn chỉnh hệ thống GD quốc dân theo hướng gắn kết GD phổ thông - GD nghề nghiệp - GD ĐH và GD dạy nghề, khắc phục những lệch lạc có tính hệ thống hiện tại; tập trung giải quyết dứt điểm những vấn đề bất cập của chương trình - SGK, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất để phát triển GD ngang bằng với các nước; đề nghị tách hệ thống lương giáo viên ra khỏi hệ thống lương hành chính sự nghiệp trong việc cải cách lương sắp tới; thành lập uỷ ban GDĐT Quốc gia giúp Đảng và Chính phủ điều phối toàn bộ công tác đổi mới căn bản toàn diện nền GD Việt Nam; mạnh dạn cải cách cơ chế tuyển chọn và sử dụng trí thức hiện nay, đổi mới tư duy về công tác lựa chọn, đào tạo và sử dụng những người đủ tâm, đủ tầm cho phát triển GD.

Theo GS Chu Hảo, cần tổ chức tiến hành cuộc tổng điều tra giáo dục trong năm 2013. Tổ chức soạn thảo đề án tổng thể về cải cách giáo dục trong năm 2014 để Chính phủ trình Quốc hội thông qua và tổ chức thực hiện từ năm 2015. Từ nay đến khi có đề án tổng thể về cải cách giáo dục, không tiến hành bất cứ một đề án đổi mới hoặc dự luật giáo dục mới nào do Bộ GD-ĐT đề xuất.

Theo Lao Động

Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012

Cuốn theo chiều gió (Gone with the wind)-Margaret Mitchell,

Xuất bản lần đầu năm 1936, là một cuốn tiểu thuyết tình cảm của Margaret Mitchell, người đã dành giải Pulitzer với tác phẩm này năm 1937. Câu chuyện được đặt bối cảnh tại GeorgiaAtlanta, miền Nam Hoa Kì trong suốt thời kì nội chiến và thời tái thiết. Tác phẩm xoay quanh Scarlett O'Hara, một cô gái miền Nam đầy sức mạnh, phải tìm mọi cách để sống sót qua chiến tranh và vượt lên cuộc sống khó khăn trong thời hậu chiến. Tiểu thuyết đã được chuyển thể thành phim năm 1937.
Tóm tắt nội dung
Phần 1
Bộ phim bắt đầu trên trang trại trồng bông Tara ở vùng nông thôn Georgia năm 1861 - thời kì nước Mỹ đang xảy ra nội chiến, nơi mà Scarlett O'Hara (Vivien Leigh) đang tán tỉnh hai anh em nhà Tarleton, Brent và Stuart. Scarlett, Suelle và Careen là ba cô con gái của một người di cư gốc Ailen, Gerald O'Hara, và vợ ông, Ellen O'Hara, một hậu duệ của dòng dõi quý tộc Pháp. Hai anh em nhà Tarleton chia sẻ với Scarlett một bí mật, rằng Ashley Wilkes, người mà Scarlett thầm yêu, sẽ cưới em họ anh ta là Melanie Hamilton. Lễ đính hôn dự định sẽ được thông báo và ngày tiếp theo đó trong bữa tiệc ngoài trời tại nhà Ashley, trang trại Twelve Oaks gần đó.
Tại Twelve Oaks, Scarlett nhận ra cô đang được mến mộ bởi Rhett Butler (Clark Gable), một khách mời đẹp trai láu cá mà đã bị dòng họ ở Charleston của anh ta từ mặt. Rhett bị mọi người phản đối trong một cuộc thảo luận về chiến tranh, khi anh cho rằng miền Nam chẳng có cơ hội nào thắng những con số vượt trội và sức mạnh công nghiệp của miền Bắc. Scarlett lẻn đi khi mọi người đang ngủ trưa để được ở một mình với Ashley trong thư viện, và thú nhận tình yêu dành cho anh. Ashley thừa nhận anh thấy Scarlett hấp dẫn, và rằng anh cũng đã luôn thầm yêu cô, nhưng anh và Melanie ngọt ngào hợp nhau hơn. Cô buộc tội Ashley đã khiến cô hiểu nhầm và tát anh một cách giận dữ. Ashley im lặng bỏ đi còn Scarlett càng tức giận khi biết rằng Rhett đang chợp mắt trên ghế bành trong thư viện, và anh đã nghe lỏm toàn bộ câu chuyện. "Này ông, ông thật chẳng ra dáng một quý ngài!", và anh đáp lại lời của cô: "Còn cô, thưa cô, chẳng phải một quý bà!". Tuy nhiên Rhett hứa sẽ giữ kín bí mật tội lỗi của cô. Scarlett vội vã rời khỏi thư viện. Bữa tiệc bị gián đoạn bởi thông báo rằng chiến tranh đã nổ ra, do đó đám đàn ông phải vội đi tòng quân và đám phụ nữ thì bị tỉnh giấc trưa. Khi Scarlett nhìn Ashley hôn tạm biệt Melanie từ trên lầu, cậu em trai nhút nhát của Melanie, Charles Hamilton (Rand Brooks), người mà Scarlett đã vô tư đùa bỡn, hỏi cưới cô trước khi lên đường. Mặc dù không thực sự yêu Charles nhưng Scarlett vẫn đồng ý với mục đích tiếp cận gia đình Ashley và khiến anh ghen tuông. Charles và Scarlett cưới trước khi anh lên đường ra mặt trận.
Scalett sớm gúa bụa khi Charles chết vì bệnh viêm phổi và bệnh sởi trong quá trình phục vụ quân đội Liên minh miền Nam. Mẹ của Scarlett gửi cô đến nhà Hamilton ở Atlanta để khiến cô vui lên, mặc dù bà vú trực tính Mammy (Hattie McDaniel) bảo với Scarlett rằng bà biết cô tới đó chỉ hòng hi vọng Ashley quay lại. Scarlett và Melanie tham gia buổi bán hàng từ thiện ở Atlanta ; Scarlett, người đáng nhẽ phải chìm đắm trong tột cùng đau khổ thì bị xì xào căm ghét. Rhett, bây giờ là người hùng vượt phong tỏa của Liên minh, xuất hiện trong sự ngạc nhiên của mọi người. Scarlett thậm chí còn làm dân chúng Atlanta kinh ngạc hơn khi chấp nhận lời mời nhảy cùng của Rhett. Trong khi nhảy, Rhett tiết lộ ý định giành lấy cô, và Scarlett đáp rằng điều đó sẽ chẳng bao giờ xảy ra khi mà cô còn đang sống. Cuộc chiến trở nên bất lợi cho Liên minh sau trận Gettysburg mà trong đó nhiều đàn ông ra đi từ thị trấn của Scarlett đã hi sinh. Scarlett một lần nữa không thành trong nỗ lực giành lấy trái tim Ashley khi anh về nghỉ lễ Giáng sinh, mặc dù họ đã hôn nhau say đắm trong phòng khách trước khi anh quay trở lại mặt trận. Trong bệnh viện, Scarlett và Melanie chăm sóc những chiến sĩ bị thương (Cliff Edwards).
Tám tháng sau, thành phố bị bao vây bởi quân đội Liên bang trong chiến dịch Atlanta, Melanie trở dạ sớm. Giữ lời hứa với Ashley rằng sẽ "chăm sóc Melanie", Scarlett và người hầu gái Prissy (Butterfly McQueen) phải tự đỡ đẻ mà không có bác sỹ. Scarlett cầu xin Rhett đưa cô trở về Tara ngay lập tức cùng với Melanie, Prissy và đứa bé. Anh xuất hiện trên xe ngựa để mang họ rời khỏi thành phố trên một hành trình nguy hiểm vượt qua những bến ga và kho hàng bốc cháy. Anh bỏ cô lại cùng với con ngựa sắp chết, Melanie đang hấp hối, đứa bé và Prissy khóc lóc sướt mướt, cùng một nụ hôn say đắm trên đường trở về Tara. Cô đáp lại sự sửng sốt của anh bằng một cái tát khi anh lên đường chiến đấu cho quân đội Liên minh. Trên hành trình trở về nhà, Scarlett thấy Twelve Oaks bị cháy, tàn phá và bỏ hoang. Cô thở phào nhìn thấy Tara vẫn còn nhưng tất cả đã bỏ đi ngoại trừ bố mẹ cô, những người chị em và hai người làm, Mammy và Pork (Oscar Polk). Scarlett biết tin mẹ cô vừa mất vì sốt thương hàn còn cha cô thì đang trở nên mất trí sau những đau khổ. Trước Tara không có ai coi sóc và bị cướp phá bởi đám lính Liên Bang, Scarlett thề cô sẽ làm bất cứ điều gì để cứu sống gia đình và bản thân: "Có chúa chứng giám, ta sẽ không bao giờ đói nữa".

Phần 2
Scarlett xếp đặt công việc thu hoạch bông cho người nhà và giúp việc. Cô còn giết cả một tên lính miền Bắc đào ngũ đã đột nhập và hăm doạ cô, và tìm được tiền vàng trong túi dết của hắn, đủ để chu cấp cho gia đình cô trong một thời gian ngắn. Chiến tranh kết thúc với sự thất bại của quân Liên minh. Ashley trở về sau khi bị bắt làm tù binh. Mammy ngăn Scarlett chạy đến bên anh trong ngày anh và Melanie đoàn tụ. Ashley chán nản thấy mình không giúp được gì nhiều cho Tara, và khi Scarlett cầu xin anh hãy chạy trốn cùng cô, anh thú nhận rằng anh khao khát cô rồi hôn cô say đắm, nhưng cũng nói rằng anh không thể rời bỏ Melanie. Gerad O’Hara chết vì ngã ngựa trong lúc cố rượt tên Yankee, đốc công cũ của Tara bây giờ muốn mua lại điền trang này, ra khỏi lãnh địa của ông. Chỉ còn lại Scarlett một mình gánh vác gia đình, và cô nhận thấy là không thể trả nổi những khoản thuế má ngày càng tăng cho Tara. Biết rằng Rhett vẫn còn ở Atlanta và tin rằng anh vẫn giàu có, cô yêu cầu Mammy may cho một chiếc váy từ tấm rèm cũ của mẹ cô vẫn treo trong phòng khách. Tuy nhiên, qua cuộc viếng thăm, Rhett bảo cô rằng tài khoản ngân hàng của anh đã bị phong toả, và rằng nỗ lực vay mượn của cô là vô ích.
Khi Scarlett từ biệt Rhett, cô chạm trán vị hôn phu của cô em gái, Frank Kennedy đã luống tuổi, người mà hiện tại đang sở hữu một cửa hàng tạp hoá và một nhà máy xẻ gỗ đều làm ăn phát đạt. Scarlett nói dối rằng Suellen mệt mỏi vì chờ đợi và đã cưới một gã đẹp trai khác. Sau khi trở thành bà Frank Kennedy, Scarlett cũng tiếp quản luôn công việc kinh doanh của chồng, và nàng dùng lợi nhuận kiếm được để mua một nhà máy cưa mà đã rất phát đạt trong quá trình tái thiết Atlanta, một phần là vì cô sẵn sàng giao thương với cả bọn Yankee đáng khinh cũng như thuê dùng những công nhân từng ngồi tù trong nhà máy của cô. Khi Ashley sắp nhận được một công việc trong nhà băng, Scarlett lại nhử tính yếu đuối của anh bằng cách khóc lóc rằng cần anh giúp một tay điều hành nhà máy cưa. Dưới sức ép từ Melanie, anh nhận lời. Một hôm, sau vụ Scarlett bị tấn công khi đánh xe một mình qua khu ổ chuột lân cận, Frank, Ashley và những người khác đã bất ngờ đột kích vào khu phố đó. Ashlet bị thương trong cuộc ẩu đả với đám lính Liên bang, còn Frank thì chết.
Sau đám tang của Frank, Rhett tới thăm Scarlett và cầu hôn nàng. Scarlett chấp nhận anh một phần vì tiền. Anh hôn nàng say đắm và nói rằng rồi một ngày anh sẽ giành được tình yêu của nàng bởi cả anh và nàng đều giống nhau. Sau tuần trăng mật ở New Orleans, Rhett hứa rằng sẽ lấy lại vẻ huy hoàng cũ cho Tara, trong khi Scarlett xây dựng biệt thự lớn nhất ở Atlanta. Hai người có với nhau một bé gái. Scarlett muốn đặt tên bé là Eugenie Victoria, nhưng Rhett lại đặt là Bonnie Blue Butler. Rhett làm mọi thứ để có được danh tiếng tốt đối với dân chúng Atlanta vì lợi ích của cô con gái bé bỏng. Scarlett, vẫn bám lấy Ashley và buồn phiền trước những dấu hiệu đi xuống của nhan sắc (vòng eo của nàng đã tăng từ 18,5 inch lên 20 inch), nói với Rhett rằng cô không muốn có thêm con nữa và rằng họ sẽ không ngủ chung giường kể từ nay. Trong cơn tức giân, anh đạp đổ cánh cửa ngăn đôi phòng ngủ của hai người, cho cô biết rằng cô không thể xua đuổi anh một khi anh đã muốn gần cô.
Một hôm trong lúc đi thăm nhà máy, Scarlett và Ashley cùng ôn lại những kỉ niệm xưa cũ, và khi cô ôm lấy anh để an ủi thì đã bị phát hiện bởi hai kẻ hay buôn chuyện, trong đó có chị gái India của Ashley, người vốn ghét Scarlett. Họ hăm hở rêu rao tin đồn khắp nơi và danh tiếng của Scarlett lại một lần nữa bị huỷ hoại. Tối hôm đó, Rhett, đã biết chuyện, buộc Scarlett phải ra khỏi giường và đến dự bữa tiệc sinh nhật của Ashley. Không tin bất cứ lời nói xấu nào về chị dâu mình, Melanie đã đứng về phía Scarlett để cho mọi người thấy rằng cô tin những tin đồn kia là sai sự thật.
Tối muộn hôm đó, sau khi về đến nhà, trong khi định lén lấy cho mình một ly rượu thì Scarlett phát hiện ra Rhett đang ngồi uống ở tầng dưới. Mù quáng vì ghen tuông, anh bảo Scarlett rằng anh có thể giết cô nếu điều đó có thể khiến cô quên được Ashley. Bế xốc cô lên tầng, anh nói: "Đêm nay em sẽ không đẩy tôi ra". Cô tỉnh dậy vào sáng hôm sau với vẻ hạnh phúc tội lỗi, nhưng Rhett trở lại để xin lỗi cô và đề nghị li hôn. Scarlett không đồng ý, nói rằng đó là một sự ô nhục. Rhett quyết định mang theo Bonnie trong chuyến đi dài ngày đến Luân Đôn. Tuy nhiên sau đấy anh nhận ra rằng một đứa bé như Bonnie vẫn luôn cần có mẹ vì một đêm, Bonnie gặp ác mộng và bé đã khóc gọi mẹ trong mơ. Rhett trở về cùng với Bonnie và Scarlett vui sướng được gặp lại anh, nhưng anh cự tuyệt nỗ lực hoà giải của cô. Anh để ý thấy sự khác biệt ở cô. Cô cho anh biết cô đang mang bầu nữa. Rhett hỏi ai là cha đứa bé và Scarlett nói với anh rằng anh biết rõ đấy là ai và thậm chí cô còn chẳng muốn đứa bé. Bị tổn thương, Rhett bảo cô "Vui lên đi. Biết đâu cô sẽ gặp tai nạn." Điên tiết, Scarlett nhảy bổ vào Rhett nhưng bị trượt chân ngã xuống cầu thang và sẩy thai. Rhett, phát điên lên vì cảm giác tội lỗi, khóc và kể với Melanie về cơn ghen của anh nhưng vẫn không để lộ sự thật về tình cảm của Scarlett dành cho Ashley.
Khi Scarlett đang hồi phục thì Bonnie bé bỏng, cũng bốc đồng như ông ngoại, chết trong một cú ngã trong lúc nhảy qua hàng rào với chú ngựa con. Scarlett đổ lỗi cho Rhett còn Rhett thì đổ lỗi cho chính mình. Melanie tới thăm để an ủi họ, và thuyết phục Rhett hãy để Bonnie được yên nghỉ nhưng sau đó thì cô đổ gục khi mang cái thai thứ hai mà bác sỹ đã cảnh báo có thể khiến cô mất mạng. Lúc hấp hối, cô nhờ Scarlett chăm sóc Ashley dùm cô như nàng đã từng chăm sóc cô dùm Ashley. Melanie cũng bảo Scarlett hãy đối tốt với Rhett vì anh rất yêu cô và trút hơi thở cuối cùng. Bên ngoài, Ashley khuỵu xuống trong nước mắt, vô vọng khi không còn vợ nữa. Chỉ đến lúc đấy Scarlett mới nhận ra cô không hề có một ý nghĩa gì trong anh, rằng cô đã yêu một điều gì đó chưa từng tồn tại. Cô chạy về nhà chỉ để biết rằng Rhett đang đóng gói hành lí rời bỏ cô. Cô cầu xin anh đừng đi, nói với anh rằng cô đã luôn yêu anh, rằng cô chưa từng thật sự yêu Ashley. Nhưng, anh cự tuyệt, nói rằng cái chết của Bonnie đã đi cùng với mọi cơ hội hàn gắn giữa hai người. Và khi cô nhắc lại rằng cô yêu anh, anh khẳng định: "Đấy là điều không may của em".
Khi Rhett bước ra khỏi cửa, dự định sẽ quay về quê hương Charleston của anh, Scarlett van nài, "Rhett, nếu anh đi, em sẽ về đâu? Em sẽ làm gì? Anh đã trả lời một câu nổi tiếng, "Nói thẳng là, em yêu, tôi đếch quan tâm!" và lẩn vào màn sương. Cô ngồi trên bậc thang và khóc trong tuyệt vọng, "Vậy thì có sao chứ?". Và rồi cô nhớ lại giọng nói của Gerald, Ashley, Rhett, tất cả họ đều gợi nhắc cô rằng sức mạnh của cô đến từ chính Tara. Hi vọng bừng sáng trên gương mặt Scarlett: "Tara! Nhà. Mình sẽ về nhà, và mình sẽ nghĩ cách mang Rhett trở về! Rốt cuộc thì, ngày mai là một ngày khác!". Trong cảnh cuối, Scarlett đứng dậy, kiên quyết, trước khi đến Tara.

Alfred Nobel

Tập tin:AlfredNobel adjusted.jpgNobel sinh ngay 21 tháng 10 năm 1833 mat 10 tháng 12 năm 1896 là một nhà hóa học, một nhà kỹ nghệ, người phát minh ra thuốc nổ (dynamite) và một triệu phú người Thụy Điển. Ông dùng tài sản của mình để sáng lập ra Giải thưởng Nobel. Nguyên tố hóa học Nobelium được đặt theo tên của ông.
Từ bé, Nobel rất hay bị ốm, nên sức khoẻ của cậu bé không được tốt lắm. Sau vài năm, bố của Nobel rời đến Leningrad (nay là Sankt-Peterburg) để chế tạo thuỷ lôi, địa lôivũ khí cho quân đội Nga bành trướng ra bên ngoài. Sau 5 năm xa cách, cuối cùng, năm 1842, cả nhà Nobel chuyển đến Leningrad, nơi bố đang làm việc.
Nobel đặc biệt thích học văn học, nhưng bố cậu lại muốn Nobel học khoa học (vì Nobel có năng khiếu về khoa học kỹ thuật). Nobel cũng đành phải nghe lời bố.Từ đó, Nobel bắt đầu nghiên cứu cùng bố và các anh về thuốc súng và thuỷ, địa lôi.
Năm 1853, cuộc chiến Krim nổ ra, nước Nga đối đầu với liên quân ba nước Anh-Pháp-Thổ Nhĩ Kì. Nhà máy Nobel càng bận rộn hơn. Tuy nhiên, sau khi Nga bại trận, nhà máy Nobel bị phá sản vì nguồn nợ quá lớn. Cả gia đình phải trở về Thuỵ Điển.

Tai nạn đầu tiên

Sau khi về Thuỵ Điển, Nobel nghiên cứu về Nitroglycerin, nó phân giải ở 50-60 °C và phát nổ rất mạnh ở nhiệt độ 218 °C. Dù rất nguy hiểm, Nobel vẫn miệt mài nghiên cứu. Sau vài lần nghiên cứu với bố, anh cũng tìm ra nguyên lý của thuốc nổ và, mọi người đã chứng kiến một cách kinh ngạc. Nobel thành lập một công ty, và công ty của anh cũng làm ăn phát đạt hơn trước, không những thế, nhiều lúc nhà máy còn phải sản xuất cấp tốc để giao hàng cho kịp. Em út của Nobel, Emil Nobel cũng cùng anh và bố nghiên cứu Nitroglycerin, và Emil được quyền tự do trong nhà máy.
Nhưng do Alfred Nobel chủ quan về tính năng an toàn, ngày 3 tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, rất nhiều công nhân thiệt mạng, trong đó có cả Emil, em Nobel. Sau lần tai nạn đó, thuốc nổ hầu như bị mọi người bác bỏ, nhưng Nobel quyết không từ bỏ ý định chế tạo thuốc nổ.
Ít người biết rằng Alfred Nobel cũng là một nhà soạn kịch, Nemesis, một bi kịch bốn hồi về Beatrice Cenci, một phần lấy cảm hứng từ vở kịch thơ năm hồi của Percy Bysshe Shelley The Cenci, đã được in khi ông hấp hối, và toàn bộ số sách đó, trừ ba bản lưu bị đốt ngay sau khi ông chết, vì bị coi là một vụ scandal và báng bổ. Cuốn xuất bản lần đầu tiên còn lại (song ngữ tiếng Thuỵ Điển - Quốc tế ngữ) được xuất bản tại Thuỵ Điển năm 2003. Vở kịch (tháng 5 năm 2003) vẫn chưa được dịch ra bất cứ một thứ tiếng nào ngoài Quốc tế ngữ.
Thi hài Alfred Nobel được chôn cất tại Norra begravningsplatsen ở Stockholm.

Thuốc nổ dynamite

Nobel bắt đầu nghiên cứu thuốc nổ từ năm 17 tuổi. Nobel thấy rằng khi nitroglycerin kết hợp với một chất hấp thu trơ như kieselguhr (đất có nhiều tảo cát hay còn gọi là đất mùn) nó trở nên an toàn và dễ sử dụng hơn, và ông được trao bằng sáng chế hỗn hợp đó năm 1867 với cái tên dynamite. Nobel đã quảng cáo thử nghiệm chất nổ của mình lần đầu tiên trong năm đó tại một mỏ khai thác đá tại Redhill, Surrey, Anh Quốc.
Tiếp theo ông kết hợp nitroglycerin với một chất nổ mạnh khác, bông thuốc súng, và có được một chất trong như thạch với sức công phá mạnh hơn cả dynamite. Gelignite, hay Blasting gelatin như tên nó được gọi, được cấp bằng sáng chế năm 1876, và tiếp theo đó là hàng loạt các hỗn hợp tương tự khác, thêm kali nitrate, bột gỗ và nhiều chất khác.
Vài năm sau, Nobel tạo ra ballistite, một trong những loại thuốc súng nitroglycerin, có chứa phần bông thuốc súng và phần nitroglycerin tương đương nhau. Thuốc súng này là tiền thân của cordite, và Nobel tuyên bố rằng bằng sáng chế của ông về loại thuốc súng này hùng hồn minh chứng cho sự tranh cãi giữa ông và Anh Quốc. Đỉnh điểm của việc chế tạo loại thuốc nổ này là thuốc nổ mạnh và không có khói. Từ việc chế tạo dynamite và các loại thuốc nổ khác cũng như công việc khai thác các giếng dầu ở Baku của ông và các anh em trai Ludvig và Robert Hjalmar (1829-1896) ông có được một gia sản to lớn.

Các giải thưởng

Công bố sai lầm năm 1888 vụ cáo phó sớm về cái chết của Nobel trên một tờ báo Pháp, cho rằng phát minh ra dynamite của ông, được cho là điều khiến ông quyết định để lại một di sản tốt hơn cho thế giới sau khi chết. Bản cáo phó viết Le marchand de la mort est mort (Nhà buôn cái chết đã chết) và tiếp tục viết, "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã qua đời ngày hôm qua."
Ngày 27 tháng 11 năm 1895 tại Câu lạc bộ Thuỵ Điển – Na Uy ở Paris, Nobel đã ký chúc thư cuối cùng của mình và để phần lớn số tài sản thành lập các giải Nobel, trao hàng năm cho bất kỳ ai không phân biệt quốc tịch. Ông chết sau một cơn đột quỵ ngày 10 tháng 12, 1896 tại Sanremo, Ý. Số lượng tiền mặt dành cho Quỹ Giải Nobel là 31 triệu kronor (4.223.500,00 USD).
Ba giải Nobel đầu tiên dành cho những gương mặt nổi bật trong khoa học vật lý, trong hoá học và trong Giải Nobel Sinh lý học hay Y học; giải thứ tư là giải đáng chú ý nhất các tác phẩm văn học "theo một định hướng tư tưởng" và giải thứ năm được trao cho cá nhân hay tổ chức có được thành tích tốt nhất phục vụ lý tưởng cho tình thân thiện quốc tế, ngăn chặn hay giảm bớt các đội quân thường trực, hay thành lập hay xúc tiến sự tiến triển của hoà bình.
Định nghĩa giải văn học, "theo một định hướng tư tưởng" (tiếng Thuỵ Điển: i idealisk riktning), khá khó hiểu và gây ra nhiều tranh cãi. Trong nhiều năm, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển diễn giải "ideal – tư tưởng" mang nghĩa "duy tâm hay lý tưởng" (trong tiếng Thuỵ Điển idealistisk), và coi đó là lý do để từ chối trao giải cho những tác giả quan trọng nhưng kém phần lãng mạn, như Henrik Ibsen, August StrindbergLev Nikolayevich Tolstoy. Cách hiểu này đã được thay đổi và ví dụ, giải thưởng đã được trao cho Dario FoJosé Saramago, những người hoàn toàn không thuộc trường phái văn học duy tâm (hay lý tưởng).
Khi đọc cuốn Nemesis trong nguyên bản tiếng Thuỵ Điển và khi nhìn vào triết thuyết cũng như quan điểm văn học của ông, dường như ông có ý chống lại điều từng tin tưởng lúc đẩu - rằng giải thưởng phải được trao cho các tác giả đã chiến đấu cho lý tưởng của mình "chống lại" những quyền lực như Chúa, Nhà thờ và Quốc gia.
Các cơ quan được ông chỉ định trao giải thưởng vật lý và hoá học cũng có khá nhiều cách diễn giải ý kiến của ông, bởi vì ông không tham vấn ý kiến của họ trước khi quyết định uỷ thác trách nhiệm. Trong một bản chúc thư dài một trang ông đặt điều kiện rằng số tiền không được trao cho những khám phá hay phát minh trong khoa học vật lý và những khám phá hay những cải tiến trong hoá học. Ông đã mở một cảnh cửa cho những giải thưởng kỹ thuật, nhưng ông không để lại những hướng dẫn về iệc làm cách nào phân biệt giữa khoa học và kỹ thuật. Bởi vì các cơ quan có quyền quyết định trao giải trong những lĩnh vực đó quan tâm nhiều tới khoa học hơn kỹ thuật nên không ngạc nhiên các giải thưởng đều được trao cho những nhà khoa học chứ không phải các kỹ sư, kỹ thuật viên hay những nhà phát minh khác. Theo một nghĩa các giải thưởng được công bố gần đây của World Technology Network là một sự tiếp nối không trực tiếp (bởi vì không phải do quỹ Nobel tạo ra) những ước vọng của Nobel, bởi vì ông đã không ghi điều đó vào trong di chúc của mình.
Năm 2001, cháu trai của ông, Peter, đã yêu cầu Ngân hàng Thuỵ điển phân biệt giải thưởng dành cho các nhà kinh tế học của họ được trao "để tưởng nhớ Alfred Nobel" với năm giải thưởng kia. Điều này đã gây ra nhiều tranh cãi về việc liệu giải thưởng trao trong lĩnh vực kinh tế hiện nay có phải là "Giải Nobel" hay không (xem Giải thưởng Khoa học kinh tế của Ngân hàng Thuỵ Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel).

Những lời đồn đại về giải Nobel

Không có giải Nobel cho toán học. Lời đồn đại cho rằng Nobel đã quyết định không thành lập giải Nobel Toán học vì một phụ nữ - được cho là người tình, vợ hay vợ chưa cưới – đã từ bỏ ông để đi theo một nhà toán học nổi tiếng, thường được cho là Gösta Mittag-Leffler. Không hề có bằng chứng lịch sử ủng hộ lời đồn này và Nobel không bao giờ kết hôn.

Thomas Alva Edison

Thomas Alva Edison (11 tháng 2 năm 1847 – 18 tháng 10 năm 1931) là một nhà phát minhthương nhân đã phát triển rất nhiều thiết bị có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống trong thế kỷ 20. Ông được một nhà báo đặt danh hiệu "Thầy phù thủy ở Menlo Park", ông là một trong những nhà phát minh đầu tiên ứng dụng các nguyên tắc sản xuất hàng loạt vào quy trình sáng tạo, và vì thế có thể coi là đã sáng tạo ra phòng nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. Một số phát minh được gán cho ông tuy ông không hoàn toàn là người đầu tiên có ý tưởng đó, nhưng sau khi bằng sáng chế đầu tiên được thay đổi nó trở thành của ông (nổi tiếng nhất là bóng đèn), trên thực tế là công việc của rất nhiều người bên trong công ty của ông. Tuy nhiên, Edison được coi là một trong những nhà phát minh giàu ý tưởng nhất trong lịch sử, ông giữ 1.093 bằng sáng chế tại Hoa Kỳ dưới tên ông, cũng như các bằng sáng chế ở Anh Quốc, Pháp, và Đức.
Ra đời và những năm thơ ấu
Thomas Edison sinh tại Milan, Ohio, con của Samuel Ogden Edison, Jr. và Nancy Matthews Elliott (1810–1871). Thomas là đứa con thứ bảy trong gia đình. Thuở nhỏ, Edison nổi tiếng là một cậu bé hiếu kì. Edison đi học muộn vì ông vốn ốm yếu. Đầu óc ông luôn lơ mơ và giáo viên của ông là Reverend Engle đã nghe lỏm và gọi ông là "rối trí". Trong khi bạn bè đồng lứa còn ham chơi thì Edison đã không những luôn băn khoăn tìm hiểu mọi vật quanh mình mà còn muốn hiểu thấu đáo các vật đó. Vì những trò nghịch ngơm của mình mà Edison đã bị đuổi học ngay khi chưa kết thúc tiểu học. Vì vậy sau này, trong một lần tiếp kiến tổng thống Mỹ Rutherford B. Hayes tại Nhà Trắng, Edison đã làm mọi người kinh ngạc khi trả lời câu hỏi của tổng thống về việc mình tốt nghiệp kĩ sưMỹ hay tại Châu Âu, ông đưa ra tờ giấy gấp tư trong đó có dòng nhận xét của thầy hiệu trưởng: "... trò T. Edison, con trai ông, là một trò dốt, lười và hư. Tốt nhất là nên cho trò ấy đi chăn lợn thì hơn vì chúng tôi thấy rằng trò ấy có học nữa thì sau này cũng không nên trò trống gì... ". Điều này đã kết thúc ba tháng đi học tại trường của ông. Mẹ ông từng là một giáo viên ở Canada và bà rất vui mừng đảm nhận việc dạy con. Bà khuyến khích và dạy ông đọc và làm thực nghiệm. Sau này ông nhớ lại, "Mẹ tôi đã tạo ra tôi. Bà rất tin tưởng và chắc chắn về tôi; và tôi cảm thấy rằng tôi có một điều gì đó để sống, một ai đó để tôi không thể làm cho thất vọng." Ông học được rất nhiều khi đọc cuốn Trường phái triết lý tự nhiên của R.G. Parker.
Cuộc sống của Edison ở Port Huron vừa cay đắng vừa ngọt ngào. Ông bán kẹo và bán báo trên các chuyến tàu hỏa từ Port Huron đến Detroit. Hơi điếc từ thời thanh niên, ông đã trở thành một điện tín viên sau khi ông cứu Jimmie Mackenzie khỏi lao vào tàu hoả. Cha của Jimmie là nhân viên nhà ga J.U. Mackenzie ở Mount Clemens, Michigan, rất vui mừng bảo trợ cho Edison và dạy ông trở thành điện tín viên. Vì bị điếc nên Edison tránh khỏi mọi tiếng ồn ào và cũng không phải nghe nhân viên điện báo bên cạnh. Một trong những cố vấn của ông những năm đầu tiên này là một điện tín viên già và là một nhà phát minh tên là Franklin Leonard Pope, ông đã cho phép chàng trai trẻ sống và làm việc trong tầng hầm ở nhà ông tại nhà Elizabeth, New Jersey.
Một số trong những phát minh đầu tiên của ông liên quan tới điện tín gồm cả máy đếm phiếu. Edison đã xin cấp bằng phát minh đầu tiên, máy đếm phiếu điện tử, ngày 28 tháng 10, 1868.

 Các cuộc hôn nhân và cuộc sống sau đó

Năm 1871, ở tuổi 24, Edison trở thành chủ một xí nghiệp được nhiều người biết tiếng. Cuộc sống dần ổn định và nhu cầu có một mái ấm gia đình chợt đến trong đầu. Ông chú ý đến cô thư kí Mary Stilwell dịu dàng, thanh mảnh làm việc trong công ty, một hôm, ông đến gặp nàng và nói: "Thưa cô, tôi không muốn phí thì giờ nói những câu vô ích. Tôi xin hỏi cô một câu rất ngắn gọn và rõ ràng: Cô có ưng làm vợ tôi không?". Cô gái sửng sốt, không tin ở tai mình - "Ý cô thế nào?cô nhận lời tôi nhé? tôi xin cô hãy suy nghĩ trong năm phút" - Edison nhắc lại lời cầu hôn cấp tốc của mình. "Năm phút cơ à? thế thì lâu quá! Vâng em nhận lời" - đỏ mặt lí nhí, Mary đáp. Ngày 25 tháng 12, 1871, ông cưới Mary, và họ có ba người con, Marion Estelle Edison, Thomas Alva Edison, Jr., và William Leslie Edison. Mary vợ ông mất năm 1884. Ngày 24 tháng 2 1886, ở tuổi ba chín, ông lấy Mina Miller một cô gái mười chín tuổi. Họ có thêm ba người con nữa: Madeleine Edison, Charles Edison (người tiếp quản công ty sau khi cha qua đời, và sau này trở thành Bộ trưởng Hải quân, được bầu làm Thống đốc bang New Jersey), và Theodore Edison.
Thomas Edison mất ở New Jersey ở tuổi 84. Sáng Chủ Nhật ngày 18/10/1931, Thomas Edison lìa trần chỉ 3 ngày trước lễ kỉ niệm sinh nhật lần thứ 52 của chiếc bóng điện đầu tiên. Những từ cuối cùng của ông nói với vợ là: "Ở ngoài kia đẹp quá".
Nước Mỹ tưởng nhớ ông bằng cách tắt toàn bộ đèn điện trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ trong một phút để tưởng nhớ người vĩ nhân, “người bạn của nhân loại” đã mang đến cho con người một thứ ánh sáng quý giá, một “mặt trời thứ hai”.

Nhà phát minh

Thomas Edison cùng chiếc máy hát quay đĩa

Không học ở trường, Edison tự học ở sách theo cách riêng của mình. Dần dần, với sự suy nghĩ, tìm tòi, thực hiện không chú trọng lí thuyết suông, từng bước Edison đã chinh phục những gì mà người thời bấy giờ cho là không tưởng. Phát minh đầu tiên của ông là một chiếc máy điện báo tải hai có khả năng cùng một lúc phát đi hai tin. Ít lâu sau, ông cải tiến thành máy tải ba, tải tư rồi đa tải.
Một thời gian sau, chán nản với công việc của một điện báo viên, Edison đến New York, trung tâm tài chính bậc nhất lúc bấy giờ, với hy vọng sẽ kiếm thêm chi phí cho các cuộc thí nghiệm của mình. Tại đây, ông đã hợp tác với vài người bạn thành lập một công ty nhỏ chuyên về điệnđiện báo. Phát minh thứ hai của ông là cải tiến chiếc máy điện báo đa tải thành Hệ thống điện báo nhận các tin tức hối đoái ngân hàng. Chiếc máy đầu tiên đã đem về cho ông một số tiền lớn. Toàn bộ số tiến kiếm được lúc này, ông trút hết vào các thí nghiệm của mình về sau.
Phát minh đầu tiên mang lại nổi tiếng cho Edison là máy quay đĩa năm 1877. Công chúng không thể ngờ được về phát minh này và coi nó là điều ma thuật. Edison bắt đầu được gọi là "Thầy phù thủy ở Menlo Park, New Jersey", nơi ông sống. Chiếc máy quay đĩa đầu tiên của ông ghi lại âm thanh trên các trụ bọc thiếc cho chất lượng âm thanh thấp và nó phá hủy luôn đường rãnh ghi âm khi nghe lại nên chỉ có thể nghe được một lần. Trong thập kỷ 1880, một model được thiết kế lại sử dụng các trụ bìa giấy các tông tráng sáp ong được chế tạo bởi Alexander Graham Bell, Chichester Bell, và Charles Tainter. Đây là một lý do khiến Thomas Edison tiếp tục làm việc để tạo ra chiếc "Máy hát hoàn thiện" của riêng ông.

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Guy de Maupassant & Một cuộc đời


Guy de Maupassant
Guy de Maupassant sinh tại vùng Normandie ở miền bắc nước Pháp ngày 5 tháng 8 năm 1850 trong một gia đình giàu có.
Cha mẹ Maupassant ly thân năm ông lên mười một tuổi, và bà mẹ đã một mình nuôi dạy con. Từ ảnh hưởng ấy, bà đã trở thành nhân vật nữ trong rất nhiều câu chuyện của ông. Maupassant được gửi đến trường nội trú ở Yvetot vì bản tính bất trị, hay nổi loạn. Ông từng học ở trường lycée tại Rouen và được bằng Cử nhân Văn chương. Sau khi tốt nghiệp, Maupassant gia nhập quân đội và tham gia Chiến tranh Pháp–Phổ (18701871).
Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân. Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục. Cuộc đời làm viên chức nhỏ kéo dài khá lâu, đã để lại nhiều dấu ấn trong tư tưởng và sự nghiệp của ông, góp phần quan trọng vào việc hình thành "hình tượng con người bé nhỏ" - một kiểu nhân vật văn học quan trọng sẽ ra đời vào cuối thế kỷ 19 và thịnh hành suốt nửa đầu thế kỷ 20.
Với những khó khăn dồn dập, Maupassant ngày càng trở nên bi quan đến nỗi bị chứng nhức đầu kinh niên không dứt, chỉ có thể làm dịu cơn đau bằng cách hít ether. Việc lạm dụng ether đã gây cho ông nhiều ảo giác và cuối cùng Maupassant bị sụp đổ tinh thần hoàn toàn. Rồi ông trở nên giàu có, và chi tiêu bừa bãi vào thú ăn chơi. Nhưng sau thời gian này, ông trở nên tuyệt vọng, vào năm 1892 tự tử nhưng được cứu sống.
Sau đó Maupassant bị giam trong dưỡng trí viện tư nhân Doctor Blanche tại Passy, Paris.
Maupassant mất ngày 6 tháng 7 năm 1893, chỉ vừa 42 tuổi, trong thời kỳ thứ ba của bệnh giang mai, căn bệnh đã kết liễu cuộc đời của nhà văn. Ông được chôn cất ở Nghĩa trang Montparnasse.

Một cuộc đời
Đây là 1 tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Pháp Maupassant, được ông viết từ cuối năm 1870, và được xuất bản năm 1883. Truyện được coi là sự tiếp nối 1 cách xuất sắc chủ nghĩa hiện thực phê phán của Pháp sau những Balzac, Xtanhđan,Flôbe...
I.
Jan chuẩn bị xong hành lý : nàng bước lại gần cửa sổ nhưng mưa vẫn rơi.
Mưa rào đập vang vang suốt đêm vào ô cửa kính, vào mái nhà. Bầu trời thấp và đẫm nước dường như vỡ ra trút hết xuống đất. hoà tan đất thành một thứ hồ nhão , làm đất chảy ra chẳng khác gì đường bị hun nóng. Từng cơn gió mạnh ào ào lướt qua , đầy khí nóng hầm hập. Phố xá vắng tanh chìm ngập trong tiếng ầm ầm của các dòng nước tuôn tràn. Nhà cửa, giống một chiếc khăn bông xốp , uống no nê hơi ẩm, thấm vào đến tận bển trong và làm cho các vách tường , từ hầm sâu tới kho thóc trên cao, đều đẫm mồ hôi.
Jan ra khỏi trường dòng ngày hôm qua:Thế là nàg được tự do mãi mãi. Nàng sẵn sàng ghi lấy mọi hạnh phúc của cuộc đời hằng mơ ước bấy lâu. Nàng sợ cha mình do dự không chịu ra đi nếu trời chưa hửng nên từ sáng tới giờ, nàng đã hàng trăm lần nhìn ra phía chân trời xem đã tạnh chưa.
Chợt nhớ ra là mình quên không xếp cuốn lịch vào trong túi hành lý, nàng gỡ từ trên tường xuống miếng bìa cứng nhỏ được chia ra từng tháng, ở giữa một hình vẽ, có đề rõ hàng chữ số vàng niên hiệu năm đó-1819. Nàng lấy bút chì gạch đi 4 cột đầu, xoá đi từng tên thánh cho đến ngày 2 tháng 5, ngày nàng ra khỏi trường dòng.
Phía ngoài cánh cửa có tiếng gọi Janet,Jan đáp " vào đi bố".Và bố Jan bước vào.
Nam tước Ximông-jắc Lơ Pectuyx đề Vô là 1 nhà quý tộc của thế kỉ trước , 1 người say mê cái gì thì say mê cuồn nhiệt. Là kẻ tôn sùng Rút xô, ông yêu thiên nhiên ,đồng ruộng, mảnh rừng và súc vật với tấm lòng tha thiết. Theo bản năng của một người sinh ra từ cành vàng lá ngọc, ông chẳng ưa gì năm 93 nhưng vốn mang bẩm tính của một nhà triết học, lại được giáo dục theo tinh thần một người yêu chuộng tự do, ông căm ghét bệnh chuyên quyền bạo ngược, căm ghét theo kiểu vô thưởng vô phạt và có tính khoa trương.
Sức mạnh to lớn và điểm yếu to lớn của ông chính là lòng tốt, một lòng tốt của người không có đủ tay mà để vuốt ve, trao tặng và ôm hôn, một lòng tốt tản mác và không bền bỉ của kẻ sáng tạo giống như một phần động lực của ý chí bị tê liệt, nghị lực bị thiếu sót, đến mức gần như là một thói xấu.
Là một nhà lý luận, ông nghiền ngẫm cả một kế hoạch giáo dục con gái mình. Ông muốn nàng sẽ được hạnh phúc, sẽ thành một người có lòng tốt, ngay thẳng và dịu hiền.
Nàng sống ở gia đình đến năm mười hai tuổi thì được bố đưa vào trường dòng Thánh Tâm, mặc dù bà mẹ khóc lóc chẳng chịu.
Bố nàng nghiêm ngặt nhốt nàng trong đó như một nhà tu kín:Nàng sống mà chẳng hề biết đến việc đời và đời cũng chẳng hề biết đến nàng. Ông muốn rằng khi trở lại gia đình, ở tuổi mười bảy,con gái ông sẽ trong sạch ,và ông sẽ tự rèn luyện con qua một khung cảnh thơ mộng vừa phải.Trên đồng ruộng giữa cảnh đất đai được chăm bón màu mỡ, ông sẽ mở cửa cho tâm hồn nàng, làm cho nàng hết khờ dại trước cảnh yêu đương chất phác,âu yếm đơn sơ của loài vật, trước những quy luật trong trẻo của cuộc sống.

Bây giờ nàng đã ra khỏi trường dòng, người rạng rỡ,đầy nhựa sống và khát khao hạnh phúc. Nàng sẵn sàng đón nhận mọi niềm vui, mọi ngẫu nhiên kì thú mà trí nàng đã từng lướt qua trong những ngày nhàn rỗi , những đêm dài cô đơn hy vọng.
Trông nàng giống như một người đẹp trongtranh của Vêrônefơ với mái tóc vàng óng ả. Nhưng so với nước da nàng, một cô gái con nhà quyền quí, mái tóc kia có vẻ còn phải nhường bước. Nước da ấy phơn phớt hồng, phủ nhẹ chút lông tơ như một lớp nhung mờ nhạt chỉ hiện ra chút ít khi có ánh nắng vuốt ve. Mắt nàng xanh một màu xanh nhạt, như mắt những pho tượng sứ Hà Lan.
Nàng có một nốt ruồi nhỏ trên cánh mũi trái và một nốt khác phía cằm phải, ở đó, màu vài sợi lông tơ quá giống sắc da đến nỗi người ta khó nhận ra. Người nàng cao, ngực nở , lưng ong,. Tiếng nói nàng rành rọt, đôi khi dường như quá thanh , giọng cười trung thực của nàng toả khắp niềm vui. Với 1 dáng điệu quen thuộc, nàng thường hay đưa 2 bàn tay lên thái dương tựa hồ làm mái tóc mình thêm bóng.
Nàng chạy đến ôm hôn bố và nói:Thế nào ta đi chứ bố?
Bố nàng cười, rung rung mái tóc khá dài đã bạc, và giơ tay chỉ ra phía cửa sổ.
-Thời tiết thế này đi làm sao được hở con?
Nhưng nàng vẫn nũng nịu và âu yếm nài ông "Ồ ta đi thôi! Con van bố đấy! Xế trưa, trời sẽ đẹp thôi mà!"
-Nhưng mẹ của con chẳng đời nào chịu đồng ý đâu.
-Có chứ ạ, con xin hứa với bố như vậy.
-Nếu con thuyết phục được mẹ, bố cũng rất muốn đi ngay.
Thế là nàng chạy vù đến phòng bà nam tước. Nàng đã ngày càng nôn nóng chời đợi ngày ra đi này.
Từ khi vào trường dòng Thánh Tâm, nàng chưa bao giờ rời khỏi thành phố Ruăng. Bố nàng không cho phép bất cứ cuộc đi chơi xa nào trước khi nàng đến tuổi ông đã định. Chỉ có 2lần, nàng được đưa về thăm Pari, trong mười lăm ngày, nhưng đấy cũng vẫn là 1 thành phố. Nàng chỉ mơ ước tới nông thôn thôi.
Bây giờ nàng sắp đi nghỉ hè ở trang trại Bạch Dương, một lâu đài cổ kiểu gia đình xây dựng trên một dải đất kề những vách đá dựng đứng ven biển gần làng Ypo, và nàng tự hẹn với mình sẽ tạo ra một niềm vui vô tận trong cuộc sống tự do bên bờ sóng nước ấy. Đã có sự thoả thuận là toà nhà ấy sẽ thuộc về nàng: nàng sẽ ở luôn tậi đó khi lấy chồng.
Cơn mưa từ chiều hôm trước vẫn không ngớt này là điều phiền muộn lớn đầu tiên trong cuộc đời nàng.
Ba phút sau, nàng vừa chạy đến phòng mẹ , ra kêu om nhà: Bố ơi bố, mẹ đồng ý rôi! Bố cho thắng ngựa vào xe đi!
Nhưng cơn mưa tầm tã vẫn chẳng ngớt đi chút nào, thậm chí có thể nói nó còn dữ tợn lên gấp đôi- khi chiếc xe ngựa tiến đến trước cửa.
Lúc Jan sắp bước lên xe, bà nam tước mới xuống cầu thang, bên này bà dựa vào chồng, bên kia bà dựa vào cô hầu to, khoẻ,nhanh nhẹn như 1 chàng trai. Đó là 1 cô gái xứ Noocmăngđi,vùng Cô, trông người ít nhất cũng phải 20, thực ra chưa tới 18.Cô được đối xử như 1 cô con gái thứ hai trong nhà phần nào vì cô là con gái của bà vú nuôi Jan. Tên cô là Rôzali. Vả lại, công việc chủ yếu cỉa cô chỉ là gíup đỡ bà chủ nhà đi lại. Đã mấy năm nay, bà béo phị do chứng bệnh phù tim khiến bà luôn miệng kêu than.
Miệng thở hổn hển bà nam tước đã bước ra tới bậc tam cấp trước cửa toà nhà cũ kĩ. Nhìn ra cái sân đang cuồn cuộn nước mưa, bà thì thầm "thật chẳng biết điều chút nào cả".
Chồng bà tươi cười " Bà Adêlait, thì chính bà đã muốn như vậy"
Vì vợ ông mang cái tên bóng bảy Adêlait nên bao giờ ông cũng thêm tiếng bà vào đó với một vẻ kinhtrọng pha chút châm biếm.
Bà bước xuống và nặng nhọc leo lên xe, làm tất cả các lò xo của chiếc xe võng xuống. Ông nam tước ngồi cạnh bà, Jan và Rôzali ngồi trên chiếc ghế quay mặt về sau.
Cô đầu bếp Luyđivin mang áo khoác và 2 cái giỏ đến, áo khoác đặt trên đầu gối mỗi người, giỏ đặt dưới chân. Sau đó Luyđivin leo lên chiếc ghế , ngồi cạnh lão Ximông và choàng mình kín mít bằng một tấm chăn. Vợ chồng ông gác cổng đến chào và đóng cổng lại, Chủ nhà dặn dò thêm ít lời về các hành lý sẽ được trở đi sau trên một chiếc xe bò, rồi xe khởi hành.
Đầu cúi thấp, lưng còng xuống dưới làn nưa, lão đánh xe Ximông như biến mất đi trong chiếc áo tơi rộng có ba tầng cổ áo. Cơn mưa to vẫn rền rĩ đập vào cửa kính nước mưa tràn ngập cả đường đi.
Hai con ngựa phi nước kiệu đưa chiếc xe đi thẳng xuống phía dưới bến tàu, chạy dọc theo dãy tàu thuỷ lớn với những cột và trục buồm, những dây buộc, tất cả đứng ủ rũ dưới bầu trời đẫm nước như những cây cối bị trụi hết cành lá, rồi chiếc xe chạy vào dãy phố dài Núi Ribudê.
Chẳng mấy chốc chiếc xe đã chạy tới cánh đồng cỏ. Thỉnh thoảng qua màn mưa mù mịt, lại trang nghiêm nổi lên một cây dương liễu ngập nước, cành lá rũ rượi như một xác chết. Móng ngựa bì bóm trong nước, bốn bánh xe văng bùn tung toé.
Mọi người im lặng. Hình như ngay cả tâm trí con người cũng ướt mèn như đất. Bà mẹ ngửa người, tựa đầu và nhắm mắt. Ông nam tước rầu rĩ ngắm nhìn cảnh nông thôn đơn điệu và đẫm nước. Gói hành lí nhỏ để trên đầu gối, Rôzali mơ màng, cái kiểu mơ màng không suy nghĩ của những người dân thường. Nhưng Jan dưới làn nước chảy ấm áp, lại cảm thấy mình như đang sống lại, chẳng khác một cây cảnh vốn trồng trong nhà nay được đem ra ngoài trời. Niềm vui dày dặn, như một tấm lá bảo vệ trái tim nàng, không để cho nó phải buồn bã. Mặc dù không nói năng gì, nàng rất muốn được cất tiếng hát lên và chìa tay ra ngoài hứng lấy nước uống. Nàng vui sướng vì được ngựa kéo đi vùn vụt, đưọc ngắm nhìn cảnh vật ủ ê và thấy mình không bị ướt át giữa cảnh lụt lội.
Và, dưới cơn mưa dai dẳng, từ mông hai con ngựa, một làn hơi như hơi nước sôi, đang nghi ngút bốc lên.
Dần dần bà nam tước ngủ thiếp đi. Khuôn mặt bà, vây quanh bởi sáu vòng tóc quấn lòng thòng, cũng dần dần sệ xuống. Ba ngấn cổ tô đỡ lấy khuông mặt đó, những nếp da uốn lượn cuối cùng biến dần vào bộ ngực mênh mông như biển cả. Đầu bà nhô lên tụt xuống theo nhịp thở, mà phị ra, qua cặp môi hé mở lọt ra một tiếng ngáy khò khò. Chồng bà cúi xuống, nhè nhẹ đặt vào đôi bàn tay đang bắt chéo trên bụng bà một chiếc ví da nhỏ. Tiếng động làm bà tỉnh giấc. Bà giường con mắt còn ngái ngủ , lờ đờ nhìn cái ví. Nó rơi xuống và bật mở. Vàng và giấty bạc vãi ra khắp sàn xe. Bà tỉnh ngủ hẳn. Thế là niềm vui của cô con gái bà đã thảnh 1 trận cười giòn như pháo nổ.
Ông nam tước nhặt tiền rồi đặt lên trên đầu gối bà và nói "Mình ạ, đây là tất cả những gì còn lại về trang trại Elơtô của tôi. Tôi đã bán nó đi để có tiền tu sửa trang trại Bạch Dương. Vì từ này, chúng ta sẽ đến ở đó luôn."
Bà đếm được 6400 frăng rồi lặng lẽ đút tiền vào túi.
Đây là trang trại thứ chín bán đi trong số ba muơi mốt cái mà các cụ đã để lại. TUy vậy với số ruộng đất còn có trong tay, nó vẫn còn thu được khoảng 20000 frăng tiền tô. Nếu khéo quản lý, 1 năm dễ dàng thu đươc tới 3 vạn frăng.
Họ sống thanh đạm nên số thu nhập ấy lẽ ra cũng đủ để chi dùng, nhưng trong nhà lại luôn luôn mở sẵn một cái thùng không đáy: lòng tốt.Lòng tốt đó làm khô cạn tiền trong tay như mặt trời làm khô cạn nước trong đầm lầy. Tiền bạc cứ chạy đi bay biến, mất mặt. Sao thế nhỉ? Chẳng ai biết. Bất cứ lúc nào ông hay bà cũng có thể nói: "Chẳng hiểu sao hôm nay tôi tiêu mất đến 100 frăng mà chẳng mua đưọc cái gì ra hồn".
Ngoài ra, việc dễ dàng giúp tiền cho nguời khác cũng là 1 trong những nguồn hạnh phúc lớn của đời họ. Họ đã thoả thuận với nhau về điểm đó 1 cách đẹp đẽ và đáng cảm động.
Jan hỏi " Lúc này lâu đài của con đã đẹp chưa", ông nam tước vui vẻ đáp "Con sẽ thấy , con gái của bố ạ".
Cơn mưa dần giảm bớt cường độ để rồi chỉ còn là 1 thứ sương mù , một thứ mưa bụi rất nhỏ. Vòm mây cao lên và trắng ra. Đột nhiên từ 1 kẽ hở không thấy được, một tia nắng dài bỗng rọi chéo xuống cánh đồng.
Mây nứt rạn, nền trời xanh xuất hiện.Rồi, giống một tấm voan bị rách, mây cứ xé toạc mãi ra, và 1 bầu trời trong đẹp, cao thăm thẳm, trải rộng trên cảnh vật.
Một cơn gió mát nhẹ thổi qua tựa hồ một tiếng thở dài sung sướng của mặt đất, Xe chạy dọc theo rìa các mảnh vườn hoặc rừng: thỉnh thoảng lại vanh lên tiếng hót véo von của một con chim đang phơi lông dưới nắng.
Chiều xuống. Lúc này mọi người trong xe đều đã ngủ trừ Jan. Xe dừng 2 lần nơi quán trọ để cho ngựa nghỉ và ăn chút lúa mạch lõng bõng nước.
Mặt trời đã lặn. Phía xa chuông nhà thờ đổ hồi. Trong 1 xóm làng nhỏ, đèn dường đã thắp. Bầu trời đầy sao sáng rực lên. Qua từng đoạn hiện lên những ngôi nhà sáng đèn như những đóm lửa xuyên qua bóng đêm. Xe vừa qua khỏi một cái dốc thì mặt trăng to đỏ lừ, trông như còn ngái ngủ bỗng đột ngột lộ ra sau rặng cây tùng.
Trời mát đến nỗi phải hạ kính cửa xe xuống. Mơ màng mãi đến phát mệt, ngắm cảnh mãi đến no cả mắt, lúc này Jan cũng đã ngủ. Thỉnh thoảng, tê dại cả người vì 1 tư thế ngồi kéo dài, nàng lại mở mătvá nhìn ra ngoài.Trong bóng đêm đầy sao sáng, nàng thấy lướt qua trước mặt mình cây cối của 1 trang trại, hoặc đây đó 1 vài con bò nằm duới ruộng, đầu ngửng cao. Rồi nàng đổi tư thế ngồi, thử nhớ lại một giấc mơ vừa chớm, nhưng tiếng bánh xe lăn liên tục vang vang, làm tâm trí nàng phát mệt, nàng nhắm mắt lại cảm thấy ê ẩm cả tinh thần lẫn thể xác.
Nhưng xe đã dừng bánh. Nhiều người, nam và nữ, tay xách đèn lồng đứng dưới cửa xe. Đến nhà rồi tỉnh giấc đột ngột, Jan nhảy xuống rất nhanh. Một bác tá điền rọi đèn để bố nàng và Rôzali gần như phải khiêng bà nam tước xuống xe. Bà luôn miệng kêu khổ,nhắc đi nhắc lại bằng cái giọng lí nhí, như thở hắt ra " Ôi trời ơi! Ôi các con ơi !". Chẳng ăn uống gì, bà liền vào buồng nắm và ngủ thiếp ngay.
Ngồi trước mặt nhau, Jan và ông nam tước cùng ăn cơm tối. 2 bố con mỉm cười nhìn nhau và vươn ngườ iqua bàn, tay nắm lấy tay. Tràn ngập 1 niềm vui thơ trẻ, 2 bố con cùng đi xem ngôi nhà đã được sửa chữa lại.
Đó là 1 trong những toà nhà cao rộng của xứ Noocmắngđi, nửa trang trại, nửa lâu đài, xây cất bằng đá trắng đã ngả màu xám, đủ sức chứa một đại gia đình.
Một sảnh đưởng rộng mêng mông cắt ngôi nhà ra làm đôi, chạy suốt từ đầu này tới đầu kia, mở 2 cửa lớn ra 2 mặt. 2 cầu thang 2 bên chạy vòng lên tầng trên, bỏ trống đoạn giữa, giống như 1 cái cầu bắc qua của ra vào.
Ở tầng dưới, phía bên phải là 1 phòng khách rất rộng có tường bịt thảm thêu hình lá cây và chim chóc chuyền cành, mọi đồ đạc đều bọc vải thêu nhỏ mũi các hình ảnh minh hoạ thơ ngụ ngôn của La Fôngten. Jan rùng mình vui sướng khi thấy tại 1 cái ghế tựa bọc vải thêu, có minh hoạ câu chuyện Con cáo và con cò hương mà nàng yêu thích từ lúc còn bé tí.
Cạnh phòng khách là gian thư viện đầy ắp những sách cổ và 2 gian buồng chưa dùng đến. Phía trái là phòng ăn, vách lát gỗ còn mới, rồi đến phòng quần áo, nhà bếp và 1 gian nhỏ có bồn tắm.
Một hành lang chạy theo chiều dài tầng gác. Mưòi cửa ra vào mười gian phòng đều mở ra lối đi đó. Ở trong cùng về phía tay phải là phòng của Jan. 2 bố con bước vào. Ông nam tước vừa mới cho sửa lại gian phòng này như mới, bằng cách đơn giản dùng 1 ít giấy hoavăn dán tường và ít đồ đạc, không dùng, cất trong kho thóc.
Những tấm thảm trong phòng, sản phẩm của xứ Flăngđrơ, đều đã rất cũ và có thêu những hình người kì dị.
Nhưng khi nhìn thấy chiếc giường nằm, cô gái bật kêu lên vui sướng. Bốn chân giường là bốn con chim to bằng gỗ sồi, đen kịt và đán sáp bóng lộn, trông cứ như 4 tên lính gác. 2 thành giường là 2 mặt gỗ rộng, chạm trổ hình hoa, lá,quả xen lẫn nhau. Bốn cọc giường có đường xẻ rãnh tinh xảo, đầu cọc chạm trổ theo kiểu Côranhtơ, trùm lên cọc là 1 cái bệ khác hình những cánh hoa hồng và thần Tình yêu cuốn vào nhau.
Cái giường vẫn có vẻ duyên dáng, mặc dù trông đồ sộ và nước gỗ đã sạm lại với thời gian trông có phần nghiêm nghị. Mền đắp chăn và đình màn đều may bằng 1 thứ lụa cổ màu xanh sẫm thêu kim tuyến, những bông huệ to trông như 2 mảnh trời lấp lánh sao.
Ngắm nghía kĩ cái giường xong, Jan giương cao đèn xem cho rõ đề tài trang trí các tấm vải dán gưòng. Tấm thứ nhất vẽ hình 1 lãnh chúa và 1 thiếu phụ trẻ, cả 2 đều mặc quần áo hết sức lạ kì, sặc sỡ màu xanh lá cây, đỏ và vàng, đang đứng trò chuyện dưới bóng 1 cây màu xanh lục, quả màu trắng đang chín. Cạnh đó, một con thỏ to, cũng màu trắng, đang gặm ít cỏ xám.
Phía trên những nhân vật ấy, xa xa thấp thoáng năm gian nhà nhỏ hình tròn , mái nhọn, và trên cao, gần như trên nền trời, có vẽ 1 cối xay gió màu đỏ thắm.
Tất cả những cái đó được trình bày trên 1 nền vải mang những hình cành lá to nở hoa.
2 tấm vải dán tường khác cũng giống tấm thứ nhất, trừ 1 điều là có vẽ thêm 4 người xứ Flăngđrơ đang từ trong những gian nhà đi ra, giơ tay lên trời tỏ vẻ ngạc nhiên và giận dữ đến cực độ.
Nhưng tấm vải cuối cùng lại trình bày một tấn bi kịch. Bên cạnh con thỏ đang gặm cỏ như các tấm trên, ở đây chàng trai nằm vật ra, trông như đã chết. Người thiếu phụ trẻ, mắt nhìn anh, tay cầm 1 lưỡi kiếm đâm vào ngực mình, và màu các quả trên cây đã trở thành đen.
Jan chịu không hiểu gì, thì chợt nhìn thấy trong 1 góc tranh hình 1 con vật nhỏ tí xíu nhỏ, đến nỗi nếu con thỏ kia là con thỏ sống thực thì hẳn nó đã ăn ngay con vật này như 1 nhánh cỏ rồi. Vậy mà đó lại là 1 con sư tử!
Thế rồi Jan nhận ra đó là bức tranh mô tả những bất hạnh của Piramơ và Tixbe! Và, mặc dầu cười thầm tính chất thô thiển của các hình vẽ, Jan vẫn thấy vui sướng được nằm trong lòng thiên tình sử này, nó sẽ không ngừng gợi lên trong tâm trí nàng những hy vọng thiết tha. Đêm đêm, giấc ngủ của nàng sẽ bềnh bồng trong không khí âu yếm cô xưa và huyền thoại ấy.
Các đồ đạc khác, còn lại trong phòng thuộc đủ mọi kiểu. Đó chính là những thứ mà mỗi thế hệ đã để lại một ít trong gia đình, những thứ đã biến các nhà cổ thành những oại bảo tàng hết sức lộn xộn. 1 tủ có ngăn rất đẹp thời vua Lu-i XIV, dát đồng sáng loáng, đặt giữa 2 cái ghế bành thời vua Lu-i XV hãy còn bọc lụa thêu hoa. 1 bàn giấy bằng gỗ màu hồng kê trước lò sưởi. Trên lò sưởi là 1 cái đồng hồ quả lắc thời Đế chế, đặt dưới 1 bầu đèn tròn.
Đó là 1 chiếc đồng hồ bằng đồng đen làm theo kiểu tổ ong treo lơ lửng giữa bốn cái trụ bằng cẩm thạch trên 1 mảnh vường nở hoa vàng. Ở đầu quả lắc dẹt có gắn 1 con ong nhỏ cánh tráng men lấp lánh từ trong , thò ra qua 1 kẽ hở dài không ngớt đưa qua đưa lại trước mảnh vườn đó.
Mặt đồng hồ làm bằng sứ tô màu đặt trong khung, bên sườn cái bầu hình tổ ong.
Đồng hồ đã điểm mưòi một tiếng. Ông nam tưóc hôn con gái rồi trở về phòng mình.
Lúc đó Han mới đi nằm, lòng vẫn còn luyến tiếc. Nàng nhìn lướt khắp phòng 1 lần chót rồi tắt nến. Nhưng cái giường chỉ có phía đầu là dựa vào tường , phía trái trông ra 1 cửa sổ.
Ánh trăngnhư 1 làn sóng trang qua song, rải trên đất 1 vầng sáng.
Những tia phản chiếu hắt lên tường 1 ánh sáng mờ nhạt vuốt ve những hình ảnh bất động về mối tình của Piramơ và Tixbê.
Qua khung cửa sổ đối diện phía chân mình, Han thấy 1 cây to tắm mình trong ánh trăng dìu dịu.Nàng trở mình nằm nghiêng nhắm mắt lại, rồi 1 lát sau lại mở ra.
Nàng tưởng mình hãy còn đang nghiêng ngả theo chiều đường xóc, và tiếng xe lăn hãy còn vang động trong đầu nàng. Thoạt tiên, nàng cứ nằm im 1 tư thế hy vọng rằng nghỉ ngơi như vậy cuối cùng sẽ ngủ đi được. Nhưng chẳng mấy chốc, sự bồn chồn trong tâm trí đã lan tràn ra khắp cơ thể nàng.
2 bắp chân nàng đâu rút lại, người cứ nóng hực mãi lên. Thế rồi nàng đứng dậy, chân không giày, tay để trần với chiếc áo ngủ dài trông như 1 bóng ma, nàng bước qua làn ánh sáng chan hoà trên sàn, mở cửa sổ và nhìn ra ngoài. Đêm sáng vằng vặc như ban ngày, và cô gái nhận ra tất cả cái cảnh vật vẫn hằng yêu mến xưa kia, khi còn thơ ấu.
Đầu tiên trước mặt nàng là 1 bãi cỏ rộng, trong ánh sáng đêm trông vàng như màu bơ. 2 cây rất to mọc sừng sững ở 2 góc phía trước lâu đài, hướng Bắc là 1 cây ngô đồng, hướng Nam là 1 khoảnh rừng nhỏ gồm năm hàng cây du cổ thụ che cho cả khu nhà, chống lại những cơn bão ngoài khơi. Gió biển luôn thổi rất mạnh đã vặn xoắn, cắt ngắn, gặm mòn và xén vát đi, như 1 mái nhà. những rặng cây du đó.
Ở 2 phía trái và phải khoảng rộng trông như 1 công viên đó, mọc 2 hàng dài bạch dương mà ở xứ Noocmăngđi này người ta gọi là những cây Pơplơ. 2 hàng cây ấy ngăn cách toà nhà của ông bà chủ với 2 cái ấp cho thuê nằm sát 2 bên, 1 ấp là của bác tá điền Cuia, ấp kia là của bác tá điền Mactanh.
Chính vì 2 hàng cây đó, lâu đài này được gọi là Bạch Dương. Pihá bên kia trang trại, trải rộng 1cánh đổng bỏ hoá, điểm lác đác những cây hoa kim tước, suốt ngày đêm vù vù gió thổi.
Quá chút nữa, bờ biển bỗng đột nhiên hẫng xuống, vì ở đó là 1 vách đá trắng thẳng đứng, sâu tới 100m, suốt ngày đêm vù vù gió thổi.
Jan ngắm nhìn mặt nước phía xa lăn tăn như đang ngủ dưới các vì sao.
Trong khung cảnh êm ả vắng bóng mặt trời đó, tất cả hương nồng của trái đất trải rộng đó đây. Một cây hoa nhài bám quanh cửa sổ phía dưới nhà luôn luôn toả ngát, hoà hơi thở sâu của nó vào hương thơm thoang thoảng của những chiếc lá non vừa nhú. Từng cơn gió mạnh chậm chạp lướt qua, mang theo vị mặn chát của không khí đượm mùi muối biển và của chất nước lầy nhầy tiết ra từ rong biển.
Thoạt đầu cô gái thả mình vào niềm vui sướng được hít thở không khí trong lành, rồi như 1 cuộc tăm mát, người nàng dịu hẳn đi trước cảnh vật yên tĩnh của nông thôn.
Tất cả những loài vật hễ tối đến là thức dậy và tìm cách che giấu cuộc sống âm thầm của chúng trong cảnh yên tĩnh của trời đêm đang hoạt động khe khẽ trong bóng tối mờ mờ. Những con chim lớn không 1 tiếng kêu vụt bay trong không trung như những vết chấm và những cái bóng. Những côn trùng vô hình vo ve nhè nhẹ bên tai hoặc lặng lẽ chạy quá đám cỏ ướt đẫm sương đêm hay trên những con đưòng cát vắng lặng.
Chỉ có 1 vài con cóc rầu rĩ hướng về mặt trăng thốt lên những tiếng kêu cụt lủn và đơn điệu.
Jan cảm thấy trái tim mình như rộng mở, cũng đầy ắp những tiếng thì thầm như trời đêm trong sáng này.
Đột nhiên tim nàng cũng tràn ngập hàng ngàn những ham muốn lẩn quất, chẳng khác những sinh vật ăn đêm đang run rẩy quanh mình kia. 1 sự đồng cảm thân thuộc đã gắn bó nàng với cảnh thơ sinh động ấy, và trong ánh trăng đêm hiền dịu, nàng cảm thấy con người nàng cũng rung lên những rung động khác thường, lòng nàng bồi hồi những ước mơ không sao hiểu nổi, 1 cái gì đó như 1 thoáng hơi thở của hạnh phúc vậy.
Và nàng thả mình mơ mộng đến tình yêu.
Tình yêu! Đã 2 năm nay, nàng ngày cành chìm ngập trong nỗi băn khoăn vì cảm thấy tình yêu đang tiến đến gần mình. Ngày nay đã được tự do yêu, nàng chỉ còn có việc gặp con người đó.
Chàng sẽ ra sao? Nàng chẳng thể nào biết rõ được và chẳng tự hỏi điều đó làm gì. Chàng sẽ là chàng thế thôi!
Nàng chỉ biết nàng sẽ yêu chàng bằng tất cả tâm hồn mình và chàng sẽ trìu mến nằng bằng tất cả sức lực của chàng. 2 đứa sẽ dạo bước, trong những buổi tối như thế này, dưới làn tro óng ánh từ những ngôi sao đổ xuống. 2 đứa sẽ tay nắm tay, đi sát bên nhau, cùng nghe tiếng đập của trái tim , cùng cảm thấy hơi ấm của đôi vai nhau, hoà niềm yêu nhau vào không khí thanh khiết ngọt ngào của những đêm hè, gắn bó với nhau đến mức có thể dễ dàng đi sâu vào những ý nghĩ thầm kín nhất của nhau bằng sức mạnh duy nhất của tình yêu.
Và điều đó sẽ kéo dài vô tận trong sự thanh cao của 1 lòng mến thương khôn tả.
Đột nhiên nàng bỗng cảm thấy như là anh ta đang đứng đó, đang dựa vào nàng rồi bất thình lình 1 cái rùng mình nhục cảm, mơ hồ chạy khắp người nàng. Bằng 1 cử chỉ tự phát, nàng siết chặt đôi tay vào ngực để giữ chặt lấy ước mơ của mình, và trên cặp môi nàng đưa về phía người yêu chưa quen biết đó, như có 1 cái gì lưót qua làm nàng ngây ngất, tựa hồ hơi thở của mùa xuân đến đặt một chiếc hôn ân ái.
Nàng bỗng nghe thấy dưới kia, phía sau lâu đài, có tiếng người bước đi trên đường, trong đêm tối. Và theo cái đà điên dại của tâm hồn, giây phút mê muội , tin tưởng cả vào những cái không thể có, vào những sự ngẫu nhiên trời định, những linh cảm thần tiên, những kết cấu hoang đưòng của số phận, nàng nghĩ "Nếu đó là anh ấy"! Nàng khắc khoải nghe bước chân đều đặn của kẻ qua đường, tin chắc rằng người đó sắp dừng lại ngoài hàng rào kia để xin nghỉ trọ.
Khi nguời đó đi qua, nàng cảm thấy buồn như sau 1 cơn thất vọng.Nhưng rồi nàng cũng hiểu rằng hy vọng như thế là quá bốc và thấy buồn cười, cho cơn cuồng dại của mình.
Tâm trí đã dịu bớt đi, nàng lại thả mình bay bổng vào 1 luồng ước mơ vừa phải hơn, thử đi sâu vào tương lai và phác hoạ cuộc sống mai sau.
Cùng với người đó, mình sẽ sống ở đây, trong toà lâu đài êm ả trông xuống mặt biển này. Chắc chắn mình sẽ có 2 con, một trai cho anh ấy, một gái cho mình. Nàng như nhìn thấy 2 đứa trẻ đang chạy chơi trên thảm cỏ giữa 2 cây ngô đồng và bồ đề, dưới con mắt vui thú đắm đuối nhìn nhau của bố mẹ chúng.
Và nàng cứ đứng đó lâu lắm, lâu lắm, mơ màng mãi như vậy, cho đến khi vầng trăng đã đi qua hết vòm trời, sắp lặn xuống mặt biển. Khí trời mát lạnh hơn.Phía Đông, chân trời đã hửng. Một con gà trống gáy trong ấp trại bên phải, và nhiều con khác hoại lại ấp trại bên trái. Qua tấm vách chuồng gà, tiếng khàn khàn của chúng như vẳng đến từ xa lắm. Sao đã lặn trên vòm trời đang sáng dần ra không rõ tự lúc nào.
Đến đây, một tiếng chim khe khẽ hót lên. Những tiếng chim ríu rít, vang theo từ các chòm lá, lúc đầu còn dè dặt, sau mạnh dạn hơn, đã trở thành líu lo vui vẻ, từ cành này sang cành khác, cây này đến cây kia, cứ lan ra mãi.
Đột nhiên, Jan cảm thấy mình chìm ngập trong mặt làn ánh sáng. Nàng lấy tay ôm chặt đầu, ngửng mặt lên, nhắm mắt lại vì chói loà bởi ánh sáng rực rỡ của bình minh.
Một núi mây cao hồng rực, phần nào còn khuất sau dãy bạch dương cao lớn, hắt những ánh đỏ như máu xuống mặt đất, vừa tỉnh giấc.
Và, xé tan những áng mây rực rỡ, dội lửa xuống cây cỏ, đồng ruộng, biển cả và khắp dải chân trời, quả cầu lửa chói lọi, khổng lồ từ từ hiện ra.
Jan cảm thấy như phát điên lên vì hạnh phúc.1 niềm vui cuồng dại, 1 nỗi xúc động không bờ bến trước cảnh vật huy hoàng tràn ngập lòng nàng đến lịm cả người. Đây là mặt trời của nàng , bình minh của nàng, cái bắt đầu của cuộc đời nàng và cái bừng dậy của những niềm hy vọng trong nàng! Nàng giơ 2 tay về phía không trung rực nắng với niềm khao khát ôm hôn mặt trời. Nàng muốn nói, muốn kêu lên 1 điều gì đó cũng thần tiên như cảnh trời rạng lúc ban mai, nhưng nàng vẫn đứng đó, lặng đi trong cái say sưa bất lực. Nàng liền úp mặt vào lòng bàn tay và cảm thấy mắt mình đầy lệ. Nàng sung sướng khóc.
Đến khi nàng ngẩng đầu lên thì quang cảnh huy hoàng bình minh đã biến mất. Nàng tự thấy người mình đã lắng dịu lại, hơi mệt và dường như bị nhiễm lạnh. Không khép cửa sổ lại nàng nằm ngã ra giường, mơ màng thêm ít phút rồi ngủ thiếp đi, say đến nỗi vào lúc tám giờ, chẳng nghe nổi tiếng bố gọi nữa, và chỉ khi ông bước vào phòng, nàng mới tỉnh giấc.
Bố nàng muốn dẫn nàng đi, chỉ cho nàng xem toà lâu đài của nàng, đã được tu sửa đẹp lên như thế nào.
Mặt trong của ngôi nhà trông xuống 1 sàn rộng trồng táo, rồi mới đến con đường. COn đường đó, được gọi là đường làng, chạy giữa những khu nhà rào kín của nông dân, dẫn đến con đường nối liền 2 thành phố Lơ Havrơ và Fêcăng ở cách đó nửa dặm.
1 lối đi thẳng tắp chạy từ hàng rào gỗ đến bậc tam cấp trước cửa nhà. Những căn nhà dịch vụ nhỏ, dựng bằng đá cuối bờ biển, mái lợp rạ, nằm ở 2 bìa sân, dọc theo những đường mương của 2 ấp trại.
Mái của toà nhà đã được lợp mới, tất cả đồ vật bằng vàng bạc trogn nhà đều được khôi phục, vách tường được sửa, các phòng được trải và bịt thảm mới, toàn bộ phía trong nhà đã được quét vôi và sơn lại.
Những mái che cửa sổ được sơn màu trắng bạc và những chỗ mới vá lại trên tường trông như những vết lốm đốm trên bề mặt rộng, xám nhạt của ngôi nhà cũ kĩ đã bạc màu.
MẶt bên kia của ngôi nhà, nơi mở cửa sổ của phòng Jan, trông ra vạt rừng nhỏ, những hàng cây du bị gió biển gặm mòn, và xa nữa là biển.
Jan và ông nam tước khoác tay nhau đi thăm tất cả, không bỏ sót một xó xỉnh nào, rồi 2 bố con đi dạo chơi chậm rãi trên những con đường bach dương bao quanh cái gọi là công viên của khu nhà. Dưới các bóng cây, trải rộng 1 tấm thảm cỏ xanh mới mọc. Ở phía ngoài cùng là vạt rừng nhỏ xinh xắn, ngang dọc những đường mòn nhỏ ngoằn ngoèo, cách nhau bởi những khóm lá, ken lại như những tấm phên. Cô gái bỗng hoảng sợ vì một con thỏ rừn đột ngột nhảy ra, vọt quá bờ đất, chạy trốn vào khóm lác biển, theo hướng những vách đá dựng đứng.
Sau bữa ăn trưa, vì bà Ađêlait còn quá mệt và nói sẽ đi nằm nghỉ, nên ông nam tước đề nghị 2 bố con đi chơi xuống tận làng Ypo.
2 bố con ra đi thoạt tiên phải băng qua xóm Êtuvăng, xóm của chính lâu đài Bạch Dương này. Ba bác nông dân chào họ như những người quen biết từ lâu.
2 bố con đi vào những cánh rừng thoai thoải xuống tận biển vòng theo 1 thung lũng.
Chẳng mấy chốc đã thấy làng Ypo. Các bà ngồi vá áo quần trên thêm thềm nhà nhìn họ đi qua. Một khe nưóc chảy ở giữa đường, những đống rác vụn kéo lê trước các cửa nhà, đường phố nghiêng nghiêng dốc bốc lên 1 mùi mắm thối. Những tấm lưới nâu, lác đác dính những vẩy cá lấp lánh như những mảnh bạc, phơi vắt trên cánh cửa những túp nhà lụp xụp nồng nặc cái mùi của những gia đình đông con chen chúc trong 1 căn phòng nhỏ.
Một vài con bồ câu daoh quanh khe nước kiếm ăn.
Jan nhìn tất cả những cái đó, thấy mới mẻ và kì lạ như 1 cảnh trên sân khấu vậy.
Nhưng đột nhiên, khi vừa vòng qua 1 bức tường, Jan bỗng thấy biển, biển mênh mông, xa tít mù tắp và xanh 1 màu xanh mờ đục, nhẵn bóng. 2 bố con dừng chân bên bãi cát ngắm nhìn những cánh buồm, trắng như những cánh chim, qua lại ngoài khơi. Bên phải cũng như bên trái, vách đá dựng đứng trông rất đồ sộ. Phía bên này, 1 cái gì như 1 mũi đất nhô ra cắt đứt tầm nhìn, trong khi đó, phía bên kia, bờ biển kéo dài xa mãi ra cho đến khi chỉ còn lại một nét mờ không sao nhìn rõ được.
Gần đó, ở 1 chõ đứt đoạn của bờ biển ấy, xuất hiện 1 bến cảng và nhà cửa. Những hòn đảo nhỏ xíu, bọt biển viền quanh, như đang lạo xạo trượt trên đá sỏi.
Những chiếc thuyền của xóm chài được kéo lên cạn, đặt trên đá cuội tròn của triền dốc, đang nằm nghiên, phơi ra dưới ánh mặt trời những cặp má tròn, bóng nhẫy hắc ín. Vài bác dân chài sửa soạn những thuyền dó, đón con nuớc triều buổi tối.
Một dân chài bước lại gần mời mua cá. Jan mua một con cá chim, định sẽ tự mình đem nó về đến trại Bạch Dương. Bác dân chài già dấm trước là nếu có đi chơi thuyền trên biển thì xin cho bác ta đến giúp và nhắc đi nhắc lại mãi tên minh để bố con Jan ghi nhớ " Laxtich, Jôzêphanh Laxtich".Ông nam tước hứa là sẽ không quên.
2 bố con trở về lâu đài.
Jan thấm mệt vì xách con cá to, liền lấy cái gậy chống của bố luồn qua mang cá, rồi 2 bố con mỗi người khiêng một đầu leo ngược bờ biển, vui vẻ cùng đi.
Họ trò chuyện râm ran như 2 đứa trẻ, tóc bay trong gío, mắt sáng ngời, nhưng dần dần, đôi tay khiêng mãi cũng mỏi đã sệ xuống, làm cho cái đuôi béo nhẫy của cá chim cứ lê thê kéo dài trên cỏ.
II.
Đối với Jan, 1 cuộc sống vui tươi và tự do đã bắt đầu. Nàng đọc sách, mơ mộng và đi lang thang 1 mình khắp vùng xung quanh. Bước chân chầm chậm, tâm trí hay bay bổng vào những ước mơ, nàng thơ thẩn men theo các con đường , hoặc vừa nhảy nhót vừa chạy xuống những thung lũng nhỏ quanh co, hai triền dốc phủ đầy hoa kim tước, trông như cái áo choàng ngày lễ dát vàng.Mùi hương nồng đượm và ngát thơm của hoa càng bốc mạnh hơn trong nắng ấm, làm nàng ngây ngấy như hương vị của một thứ rượu nho thơm. Hoà nhịp tiếng sóng xa rì rào lăn trên bãi biển, tâm trí nàng cũng được ru nhẹ.
Đôi lúc, nàng mềm người nằm ngã xuống bãi cỏ rậm trên 1 triền dốc và cũng đôi lúc, ở 1 khúc ngoặt của thung lũng, trong một trũng đất cỏ xanh, nàng chợt thấy 1 góc biển hình tam giác xanh tươi và lấp lánh dưới ánh nắng, với 1 cánh buồm thấp thoáng phía chân trời, lúc đó, nàng bỗng thấy xuất hiện những niềm vui hỗn độn như ta thường cảm thấy mỗi khi hạnh phúc đang bí mật đến gần bao phủ quanh ta.
Trong cảnh dịu dàng của vùng đất mát mẻ ấy, trước những chân trời êm ả và tròn trịa, nàng rất thích được cô đơn, được ngồi im trên các đỉnh đồi và ngồi lâu đến nỗi những con thỏ rừng dám nhảy nhót chạy qua ngay dưới chân nàng.
Nàng thường thích chạy trên bờ vách đá thẳng đứng để cho làn gió biển nhẹ nhàng phủ vào người, khiến toàn thân nàng rung lên 1 cảm khoái ngọt ngào qua sự vận động không thấy mệt giống như cá lội trong nước và chim én lượn trên trời.
Nàng gieo rắc khắp nơi những kỉ niệm như gieo hạt cho đất, loại kỉ niệm mà gốc rễ sẽ bám chặt vào tâm trí ta đến trọn đời. Nàng cảm thấy như đem một phần trái tim mình rải xuống nếp đất của các thung lũng ấy.
Nàng say sưa tắm biển. Mạnh khoẻ và táo bạo, không hề biết nguy hiểm là gì, nàng bơi xa đến mức trên bờ không còn thấy rõ nàng nữa. Nàng cảm thấy thú vị được ngâm mình trong làn nước xanh lành, trong vắt, dập dờn đưa đẩy nàng đi. Khi đã bơi ra xa bờ, nàng lật ngửa mình, 2 tay khép lại trên ngực, đôi mắt đắm nhìn bầu trời xanh thẳm đang có 1 cánh én hay 1 bóng chim biển trắng toát vun vut bay qua. Tai nàng không còn nghe thấy gì ngoài tiếng thì thầm xa xa của sóng vỗ vào đá sỏi và tiếng động mơ hồ của đất liền còn lọt đến tai qua những đường uốn lượn của sóng, nhưng rất lẫn lộn, hầu như không sao nghe rõ được.
Thế rồi Jan vùng hẳn mình lên , cực kì vui thú vung tay đập nước, miệng cất tiếng lanh lảnh kêu lên.
Đôi lần thấy nàng mải miết bơi ra quá xa, bố nàng phải cho thuyền ra tìm về.
Nàng về đến lâu đài, đói bụng đến xanh cả người, nhưng nhẹ nhõm hoạt bát, nụ cười trên môi và hạnh phúc tràn đầy trên đôi mắt./.